THANH NIÊN SƠN LA NỖ LỰC CÙNG QUÂN VÀ DÂN
ĐẨY MẠNH CÔNG CUỘC XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
VÀ CÙNG CẢ NƯỚC TIẾN HÀNH KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ
CỨU NƯỚC (1963 - 1975)
I- XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN TỔ CHỨC ĐOÀN. ĐẠI HỘI ĐẠI
BIỂU LẦN THỨ NHẤT ĐOÀN TNLĐ VIỆT NAM TỈNH sƠn LA.
Ngày 24 - 12 - 1962, Quốc
hội ra quyết định thành lập lại tỉnh Sơn La, Lai Châu và thành lập tỉnh mới Nghĩa
Lộ, thuộc khu tự trị Thái - Mèo.
Đảng bộ tỉnh Sơn La được
lập lại, tiếp tục lãnh đạo nhân dân các dân tộc đẩy mạnh công cuộc xây dựng
CNXH, phấn đấu thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ nhất. Các tổ chức chính quyền, đoàn
thể trong tỉnh cũng được thành lập lại góp phần chỉ đạo, tổ chức, đọng viên quần
chúng nhân dân nỗ lực thực hiện những nhiệm vụ chính đảng đề ra.
Tháng 19 - 1963 - Đại hội
đại biểu Đảng bộ tỉnh Sơn La lần thứ II đã xác định nhiệm vụ của toàn đngr bộ và
nhân dân các dân tộc trong tỉnh. Đại hội đã chỉ ra 3 điểm nổi bật của Sơn La và
từ đó đề ra 5 nhiệm vụ cụ thể cho những năn đầu khi mới lập lại tỉnh (1963 -
1965), trong đó coi khâu sản xuất lương thực là trọng tâm, phải ra sức phấn đáu
từ bước giải quyết vấn đề lương thực một cách vững chắc. Đồng thời với nhiệm vụ
củng cố hoàn thiện các quan hệ sản xuất, Đại hội đã coi trọng nhiệm vụ đẩy mạnh
cuộc cách mạng văn hoá và khoa học - kỹ thuật, nâng cao trình độ dân trí cảu nhân
dân các dân tộc; gắn chạt công tác bảo vệ trị an,củng cố quốc phòng với nhiệm vụ
phát triển kinh tế, văn hoá, củng cố cơ sở vững chắc về chính trị, nhất là vùng
cao biên giới, những địa bàn xung yếu…
Cùng với các tổ chức quần
chúng khác của Đảng, sau khi Đảng bộ tỉnh Sơn La được lập lại, tổ chức Đoàn TNLĐ
Việt Nam tỉnh Sơn La cũng được thành lập. Ngày 21 tháng 01 năm 1963, Ban Bí thư
TW đoàn đã ra quyết định thành lập lại các cấp bộ Đoàn của tỉnh và chỉ định BCH
tỉnh Đoàn lâm thời, do đồng chí Lương Sơn bí thư khu Đoàn trực tiếp làm bí thư.
Dưới sự chỉ đạo trực tiếp
của tỉnh Đảng bộ và sự chỉ đạo kịp thời của Ban Bí thư TW Đoàn, mặc dầu còn những
mặt yếu kém như công tác phát triển đoàn viên yếu và chậm, chưa chú trọng đúng
mức đến thanh niên các dân tộc ít người, đến vùng cao biên giới và nữ thanh niên,
còn coi nhẹ việc bồi dưỡng các em đội viên lớn tuổi…
Nhìn chung tổ chức Đoàn
TNLĐ trong tỉnh không ngừng được xây dựng và phát triển. Đến cuối năm 1963 toàn
tỉnh có 12.342 đoàn viên của 12 dân tộc chiếm khoảng 27% tổng số thanh niên,
sinh hoạt trong 456 chi đoàn. Tuy phần lớn các chi Đoàn thanh niên nông thôn mới
được thành lập từ những năm 1958 - 1959, đoàn viên còn ít, nhưng ở một số xã bước
đầu đã sắp xếp theo đơn vị kinh tế mới, đưa phân đoàn hoặc chi đoàn vào hợp tác,
nội dung sinh hoạt bước đầu được cải tiến, có tác dụng nâng cao chất lượng giáo
dục chính trị và tư tưởng, phát huy được tính tích cực và sáng tạo của đoàn viên.
Trong năm 1963 các cấp bộ
đoàn đã tiến hành tổ chức học tập và phát thẻ đoàn viên. 2.404 đoàn viên ở 121
chi đoàn được phát thẻ đoàn viên trong đợt đầu đều thấy rõ vị trí và trách nhiệm
của mình thêm gắn bó với Đoàn, với Đảng. Ở hầu khắp các chi đoàn đã tiến hành
phát thẻ, sinh hoạt của Đoàn chặt chẽ hơn, ý thức tư tưởng và tác dụng gương mẫu
của đoàn viên được nâng lên rõ rệt.
Trong quá trình xây dựng
và phát triển tổ chức Đoàn, công tác cán bộ được coi trọng. Đi đôi với việc bồi
dưỡng trong công tác thực tế, các cấp bộ Đoàn đã tiến hành cho 1.600 cán bộ Đoàn
cơ sở về những kỹ năng công tác cần thiết, giúp các cán bộ Đoàn nâng cao thêm
trình độ chính trị tư tưởng và năng lực công tác. Một số cán bộ cấp huyện và cấp
tỉnh đã được cử đi học các trường Đảng, trường Đoàn Trung ương. Các cấp bộ Đoàn
đã coi trọng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ nữ, cán bộ các dân tộc ít người. đến cuối
năm 1963, trong số uỷ viên chấp hành huyện Đoàn và tỉnh Đoàn đã có 73% là người
dân tộc. Riêng cán bộ chuyên trách của Đoàn có 50% là người dân tộc.
Song song với việc xây dựng
và phát triển tổ chức Đoàn, các cấp bộ Đoàn trong tỉnh đã chú ý phát triển tổ
chức đội Thiếu niên Tiền phong và đội nhi đồng tháng 8. Trong 163 trường cấp I
và 20 trường cấp II của toàn tỉnh đã xây dựng 197 Đội hoặc Liên đội, với trên 6
ngàn đội viên (trong các trường cấp I đội viên chiếm 56%). Tuy nhiên việc phát
triển đội viên nhiều nơi còn đồi hỏi cầu toàn và khắt khe, tính quần chúng
trong tổ chức còn hạn chế. Do đó số đội viên cho đến cuối năm 1963 ít hơn số lượng
đoàn viên và cả số lượng đảng viên trong toàn tỉnh.
Sau gần một năm nỗ lực phấn
đấu xây dựng, củng cố và phát triển tổ chức Đoàn, kể từ ngày thành lập lại, được
sự đồng ý của tỉnh uỷ và Ban Bí thư Trung ương đoàn TNLĐ VIệt Nam, tổ chức Đoàn
TNLĐ Việt Nam tỉnh Sơn La đã tiến hành Đại hội làn thứ nhất. Đại hội khai mạc
ngày 9 tháng 12 năm 1963 tại Thị xã Sơn La. Các đại biểu tiêu biểu cho thanh niên
các dân tộc trong tỉnh từ 7 huyện và Thị xã Sơn La đã về dự đại hội.
Đại hội khẳng định những
nhân tố mới, tích cực đang xuất hiện và phát triển trong thanh niên các dân tộc
của một tỉnh miền núi, có nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển nông nghiệp một
cách toàn diện. Công nghiệp địa phương và thủ công nghiệp đang hình thành. Quan
hệ sản xuất mới đang được xác lập nhờ xác lập của cuộc vận động hợp tác hoá, kết
hợp hoàn thành cải cách dân chủ ở nông thôn và việc tổ chức lại những người làm
nghề thủ công, buôn bán nhỏ ở các thị trấn,thị xã mở ra cho thanh niên các dân
tộc trong tỉnh tiền đồ rộng lớn trên con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Phần lớn
thanh niên các dân tộc trông tỉnh đã sinh ra và lớn lên cùng cách mạng, đang trở
thành chủ nhân trẻ của đát nước, sẵn sàng vượt qua mọi khó khăn, gian khổ, nỗ lực
không ngừng vươn lên, xứng đáng là lực lượng xung kích cách mạng của Đảng, luôn
đi đầu trong lao động sản xuất và trong học tập, rèn luyện, đáu trang chống lại
mọi biểu hiện tiêu cực, những hủ tục lạc hậu, cũng như âm mưu cảu kẻ địch đang
tăng cường phá hoại cách mạng.
Quán triệt tinh thần nghị
quyết của Đại hội Đảng và Đại hội Đoàn toàn quốc lần thứ ba và nghị quyết của Đại
hội đại biểu tỉnh Đảng bộ lần thứ hai, xuất phát từ tình hình và khả năng thực
tế của Đoàn và phong trào thanh niên Sơn La, Đại hội đã đề ra 4 nhiệm vụ chung
cho hai năm 1964 - 1965 là:
1- Tăng cường đoàn kết
thanh niên các dân tộc, phát huy mạnh mẽ truyền thống đấu tranh cách mạng vẻ
vang của Đoàn. Động viên toàn thể đoàn viên và thanh niên hăng hái vượt mọi khó
khăn gian khổ, lao động dũng cảm và sáng tạo, dốc toàn lực lượng phấn đấu hoàn
thành vượt mức kế hoạch nhà nước 5 năm lầm thứ nhất, tích cực tham gia xây dựng
củng cố quốc phòng.
2- Không ngừng tăng cường
giáo dục, nâng cao giác ngộ giai cấp, nâng cao trình độ văn hoá, khoa học kỹ
thuật. Bồi dưỡng tinh thần làm chủ tập thể, quan điểm lao động cộng sản chủ nghĩa,
tinh thần cảnh giác cách mạng, ý thức đấu tranh thống nhất nước nhà cho thanh
niên. Nhằm rèn luyện và đào tạo thanh niên thành lớp người mới trung thành với
chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản.
3- Ra sức củng cố và xây
dựng Đoàn vững mạnh, không ngừng nâng cao tính giai cấp, tính tiên tiến và tính
quần chúng của Đoàn, làm cho Đoàn thực sự là đội ngũ chiến đấu của những người
cộng sản trẻ tuổi, làm tròn nhiệm vụ là người lính xung kích trên mọi lĩnh vực
hoạt động, xứng đáng là cánh tay và lực lượng hậu bị của Đảng.
4- Đẩy mạnh công tác thiếu
niên nhi đồng, giáo dục đạo đức cộng sản cho các em. Tích cực củng cố xây dựng Đội
thiếu niên tiền phong, Đội Nhi đồng tháng 8. Phát huy mạnh mẽ tác động của Đội
trong học tập, trong giáo dục thiếu niên, nhi đồng nhằm bồi dưỡng cho các em phát
triển toàn diện. Chuẩn bị cho các em trở thành những đoàn viên và thanh niên tốt
sau này.
Đại hội đặc biệt coi trọng công tác tổ chức và cán bộ, Coi giáo dục
tư tưởng, bồi dưỡng và đào tạo cán bộ, cải tiến và tăng cường công tác chỉ đạo
thực hiện là yếu tố quan trọng đẻ thực hiện thắng lợi những nhiệm vụ đề ra.
đại hội quyết định phát động rộng rãi hơn nữa phong trào xung phong
tình nguyện vượt mức kế hoạch 5 năm lần thứ nhất trong thanh niên toàn tỉnh, đẩy
mạnh hoạt động của Đoàn trong cuộc vận động "Rửa hận Tây Nguyên, Sơn La quật
khởi", làm cho phong trào thật sự có tính quần chúng rộng rãi , động viên đoàn
viên và thanh niên hăng hái vượt qua khó khăn, tiến quân vào khoa học kỹ thuật,
lao động dũng cảm, sáng tạo. Hướng mọi hoạt động của Đoàn bám sát và phục vụ tích
cực 3 cuộc vận động lớn của đảng là: cải tiến quản lý hợp tác xã; cải tiến kỹ
thuật; 3 xây 3 chống và cuộc vận đồng bào miền xuôi lên tham gia phát triển
kinh tế, văn hoá miền núi.
Đại hội đã bầu Ban chấp hành tỉnh Đoàn kháo I gồm 25 đồng chí (có 2
dự khuyết). Ban Thường vụ tỉnh Đoàn có các đồng chí: Lương Sơn, Triệu Kim Thoa,
Hoàng Hảo, Lương Văn An, Vi Thị On, Hoàng Lưu, Phạm Quang Thu.
Đồng chí Lương Sơn được bầu làm bí thư tỉnh Đoàn.
Đại hội đại biểu lần thứ nhất Đoàn TNLĐ Việt Nam tỉnh Sơn La là một
bước hoàn thiện tổ chức Đoàn theo 3 cấp: Tỉnh, huyện, cơ sở, một mốc quan trọng
đánh dấu sự trưởng thành của tổ chức Đoàn và phong trào thanh niên Sơn La, khẳng
định vai trò và vị trí của tổ chức Đoàn trong đời sống chính trị của nhân dân các
dân tộc, động viên đoàn viên và thanh niên các dân tộc đoàn kết một lòng xung
quanh Đảng quang vinh và Bác Hồ vĩ đại, thực hiện thắng lợi những nhiệm vụ cách
mạng giao phó.
Nghị quyết đại hội và những định hướng cụ thể đẻ đoàn viên và thanh
niên trong tỉnh phấn đáu, không ngừng vươn lên, trở thành những con người mới
phát triển toàn diện, xứng đáng là lực lượng đáng ti cậy của đảng trong đáu
tranh cách mạng cũng như trong xây dựng, phát triển kinh tế, văn hoá ở một tỉnh
miền núi phí Tây Bắc của Tổ quốc.
II. MỞ RỘNG PHONG TRÀO
XUNG PHONG TÌNH NGUYỆN VƯỢT MỨC KẾ HOẠCH 5 NĂM LẦN THỨ NHẤT. THANH NIÊN SƠN LA
TỪNG BƯỚC CHUYỂN HOẠT ĐỘNG TỪ THỜI BÌNH SANG THỜI CHIẾN.
Là một tỉnh miền núi nằm trong khu tự trị Thái - Mèo, vừa được thành
lập lại, còn có không ít khó khăn. Sản xuất nông nghiệp vẫn mang tính độc canh,
tự cung tự cấp. Công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp rất nhỏ bế. Tỉnh có nhiều dân
tộc, trình độ phát triển không đồng đều. Điều kiện tự nhiên của từng vùng khác
nhau. Các tổ chức thanh niên xuất hiện sớm, trước khởi nghĩa tháng 8. Nhưng
trong kháng chiến chống thực dân Pháp chưa được củng cố và phát triển sâu rộng.
Đoàn dần dần được củng cố đồng thời với cuộc vận động hợp tác hoá đang diễn ra
sôi nổi trong nông thôn.
Đó là những khó khăn, đồng thời cũng là những thuận lợi cho hoạt động
của tổ chức Đoàn và phong trào thanh niên Sơn La. đến cuối năm 1963 toàn tỉnh đã
có 1.041 hợp tác xã, chiếm 83,5% tổng số nông dân tham gia (vùng thấp 88,9%, vùng
cao 44,2%). Bên cạnh các hợp tác xã của địa phương tỉnh đã xây dựng được 19 hợp
tác xã khai hoang gồm gần 6.000 đồng bào của 2 tỉnh Hưng Yên, Thái Bình lên
tham gia phát triển kinh tế miền núi ở khắp các huyện. Quan hệ sản xuất mới được
xác lập, theo đó các phân Đoàn, chi đoàn thanh niên ở các đội sản xuất, trong các
hợp tác xã được thành lập. Thanh niên từng bước được giải thoát khỏi những ràng
buộc của những lề thói lạc hậu, các hủ tục mê tín, dị đoan, tạo ra những điều
kiện thuận lợi đẻ hoạt động của tổ chức Đoàn gắn bó với những nhiệm vụ chính trị
của cơ sở. Trong sản xuất công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp, việc ra đời hành
loạt xí nghiệp quốc doanh và hành trăm cơ sở thủ công nghiệp, làm cho giá trị tổng
sản lượng chiếm tỉ trọng đáng kể trong nền kinh tế của một tỉnh miền núi vốn lấy
sản xuất nông - lâm nghiệp làm mũi nhọn. đồng thời hình thành một lớp công nhân
trẻ, người các dân tộc. Trong 32 xí nghiệp quốc doanh mới thành lập đã có trên
1.000 công nhân trẻ làm việc, tạo điều kiện cho hoạt động của Đoàn trong tỉnh có
những sắc thái mới.
Phong trào "xung phong tình nguyện vượt mức kế hoạch 5 năm lần
thứ nhất" phát động từ Đại hội Đoàn toàn quốc lần thứ III (1961) được
thanh niên các dân tộc Sơn La ngày càng tham gia tích cực và không ngừng được mở
rộng. Đến cuối năm 1963 có 124 cơ sở bao gồm 7.780 đoàn viên và thanh niên đăng
ký xung phong tình nguyện vuợt mức kế hoạch 5 năm lần thứ nhất.
Trên mặt trận sản xuất nông nghiệp, với tinh thần tình nguyện vượt mức
kế hoạch, hàng vạn thanh niên các dân tộc đã tham gia làm thuỷ lợi, sửa chữa hàng
ngàn mương phai. Bất chấp "ma thiêng nước độc", thanh niên Chiềng Cọ
(Mường La) đã vào tận hang sâu để tìm nguồn nước để mở rộng diện tích cấy chiêm.
Chỉ tính riêng 8 tháng đầu năm 1963 thanh niên đã cùng với nhân dân sửa chưa trên
700 mương phai lớn nhỏ, làm 4 trạm máy bơm nước tự động và tiếp tục khởi công làm
4 trạm khác, tạo điều kiện mở rộng diện tích ruộng nước bằng khai hoang, tăng vụ…
Phong trào làm phân bón ruộng phát triển. Từ chỗ ngại bẩn, sợ bón phân
lúa sẽ có sâu, nhiều cỏ… thanh niên trong tỉnh đã phát động phong trào làm 5 ngàn
cân phân bón. Vơi khẩu hiệu "Bản pẹ Mường suê, hay đi ná chăn" thanh
niên nông thôn đã không quản ngày đêm, trưa tối, tận dụng nguồn phân xanh và phân
chuồng, thi đua dành danh hiệu kiện tướng làm phân, góp phần đưa mức bón phân của
nhiều hợp tác xã tăng lên. Xã Chiềng Pằn (Yên Châu) đã bón 17 tấn phân trên một
ha. Xã Phiêng Luông (Mộc Châu) bón 9 tấn/ha. Nhiều chi Đoàn làm phân giỏi, nhiều
kiện tướng làm phân giỏi đã xuất hiện, như các chi Đoàn Chiềng Pằn (Yên Châu),
Chiềng Cọ (Mường La), Chiềng Yên (Mai Sơn), Tông Lệnh (Thuận Châu) .v.v phân Đoàn
bản Muỗng xã Phiêng Luông (Mộc Châu) 6 tháng đầu năm 1963 đã ký hợp đồng cung cấp
phân bón cho hợp tác xã và đã giao nộp được 30 tán phân các loại. Bình quân mỗi
đoàn viên làm 6 tấn phân bón. Đoàn viên Lò Văn Hiến ở Chiềng Cọ (Mường La) đã làm
được tới 42 tấn. Đặc biệt là kiện tướng Cà Văn Cù, bị mù cả hai mắt vẫn làm được
8 tấn phân bón các loại.
Phong trào cải tiến công cụ, cải tiến kỹ thuật cũng được phát triển.
Từ việc dùng cày 51, bừa sắt, bừa răng dài, cào cỏ Nghệ An, thanh niên các dân
tộc tỉnh Sơn La đã tiến lên làm bừa đĩa, xe cút kít. Hàng ngàn công cụ cải tiến
đã ra đời. Đoàn viên và thanh niên xã Phiêng Luông (Mộc Châu) đã vượt qua nhiều
khó khăn, làm xe cải tiến, mở đường vận chuyển, trở thành lá cờ đầu "giải
phóng đôi vai" của tỉnh. Học tập Phiêng Luông, chi Đoàn 4 hợp tác xã khai
hoang Ninh Thuận (Thuận Châu), chi Đoàn Mường Lầm (Sông Mã) đã đóng hàng trăn
xe cải tiến, mở rộng hàng chục cây số đường, giải quyết căn bản khâu vận chuyển
trong sản xuất công nghiệp.
Kỹ thuật thâm canh cây trồng và ký năng lao động là những vấn đề mới
mẻ đối với thanh niên các dân tộc. Đoàn đã chủ động phối hợp với các ngành chuyên môn hướng dẫn cho thanh niên một
số hiểu biết cơ bản, thông qua các hội nghị chuyên đề về khai hoang, phân bón,
chăn nuôi, diệt sâu cứu láu, tổ chức thao diễn kỹ thuật về cấy dày vừa phải,
phun thuốc trừ sâu bệnh, hái bông nhiều cơ sở Đoàn đã tổ chức khai hoang nhỏ, làm
ruộng thí nghiệm đạt kết quả tốt, như: Chiềng Ban, Phiêng Luông, Mường Hung, làm
thí nghiệm trên 6 ha bông luồi. Công việc được tiến hành ngoài giờ, vẫn đảm bảo
quy trình kỹ thuật, rút ra được nhiều vấn đề cần thiết, góp phần chỉ đạo sản xuất
đại trà. Trên thảo nguyên Mộc Châu, đoàn viên và thanh niên nông trường chè đã đi
sâu nắm vững kỹ thuật ươm, trồng và chế biến chè.
Đi đôi với việc cải tiến kỹ thuật, tổ chức Đoàn ở nhiều cơ sở đã động
viên đoàn viên và thanh niên không ngừng phấn đáu tăng năng xuất lao động, tăng
nhiều giờ công có ích. Nhiều cơ sở Đoàn đã phát động các đợt thi đua ngắn, các
chiến dịch quốc, phát, gieo trồng và thu hoạch. Đoàn viên và thanh niên nêu cao
khẩu hiệu: " Ngày làm không đủ, tranh thủ làm đêm"; "giành danh
hiệu Ấp Bắc"; "Bến Tre, Mỹ Tho bất khuất"… tranh thủ những đêm
trăng sáng cuốc nương, gieo hạt.
Tổng số ngày công trong sản xuất nông nghiệp nhờ đó tăng lên rõ rệt.
Trong các hợp tác xã thanh niên đạt 200 - 250 ngày công/năm, có đoàn viên đạt tới
315 công. Trên các nông trường đoàn viên và thanh niên đã đưa mức ngày công bình
quân 21,3 lên 23,5 công/ tháng nhiều đoàn viên, thanh niên đạt tới 30 32 công/tháng.
Khó khăn về nhân lực của hợp tác xã và các nông trường bước đầu được giải quyết,
tạo điều kiện để có thể cày bừa kỹ, chăn bón tốt, thu hoạch nhanh, gọn..
Thực hiện chủ chương phát triển nông nghiệp toàn diện, lấy sản xuất
lương thực làm chủ yếu, đồng thời phát triển mạnh cây công nghiệp, chăn nuôi và
nghề rừng. Từ sau hội nghị chăn nuôi bản Phát (Yên Châu), đoàn đã phát động
phong trào "ngàn cân thức ăn cho gia súc", đồng thời chú trọng khâu
chuồng trại và phòng trừ dịch bệnh, động viên thanh niên cùng với gia đình trồng
thêm hoa màu, tận dụng rau rừng, chế biến thức ăn dự trữ, nhất là những cơ sở
chăn nuôi tập thể. Đoàn viên và thanh niên ở nhiều cơ sở đã bước đầu áp dụng cách
ủ ướp thức ăn chua có kết quả, chuồng trại đang được cải tiến dần. NHiều giai đình
thanh niên ở các xã chiềng Yên (Mai Sơn), phiêng Luông, Kiến thiết (Mộc Châu),
Tông lệnh (Thuận Châu).v.v… đều có chuồng trại rộng, cao ráo, mỗi gia đình có từ
3 - 6 lợn thịt, từ 20 - 60 gà vịt. Một số nơi thanh niên đã thí nghiệm thụ tinh
nhân tạo chú trọng khâu chọn giống, phối giống.
Việc chăm sóc đàn cừu, bò sữa mới nhập nội ở nông trường Mộc Châu và
chềng Xung, tuy có gặp nhiều khó khăn, những đoàn viên và thanh niên nêu cao
tinh thần trách nhiệm, đi sâu học hỏi, tìm hiểu những đặc tính của chúng, tích
cực tổ chức dự trữ thức ăn. di chuyển đồng cỏ, chăn sóc cừu con. Có đoàn viên
khi cừu đẻ đã cởi áo của mình bọc cho cừu, khi cừu sa hố đã xuống hố sâu hàng
chục thước giòng cừu lênnhờ đó không những giảm được tỉ lệ cừu chết, còn vượt
chỉ tiêu về đầu con từ 15 - 20%.
Việc trồng cây gây rừng, bảo vệ và chăn sóc rừng được đoàn viên và
thanh niên coi trọng. Hưởng ứng tết trồng cây của Hồ Chủ Tịch và phong trào
"làm cho tổ quốc xanh tươi" do TW Đoàn phát động, nhiều chi Đoàn đã tổ
chức lao động XHCN làm vườn cây, đồi cây thanh niên, trồng cây trên các đường
phố. Trong 2 năm thanh niên đã trồng ngót 12 vạn cây ăn quả, cây bóng mát, cây
lấy gỗ. Cùng với việc trồng và chăm sóc cây, việc bảo vệ rừng cũng được đặt ra.
Nhiều đoàn viên và thanh niên đã dũng cảm xông vào đám cháy dập tắt lửa, cứu rừng.
Tiêu biểu là thanh niên chi Đoàn chiềng đông, trong 3 đêm liền đã huy động trên
100 đoàn viên, thanh niên cùng với nhân dân, mặc cho lửa táp cháy da, xông vào
dập tắt lửa, cứu được 800 ha rừng.
Trên mặt trận sản xuất công nghiệp và thủ công nghiệp, phong trào
xung phong tình nguyện vượt mức kế hoạch 5 năm lần thứ nhất càng được mở rộng. Ở
nhiều cơ sở Đoàn, đoàn viên và thanh niên đã tình nguyện đi tới những nơi gian
khổ, làm những ngành nghề phức tạp khó khăn, thực hiện khẩu hiệu "đâu cần
thanh niên có, việc gì khó thanh niên đi đầu", như lời Bác Hồ dạy, đồng thời
đẩy mạnh phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật, không ngừng tăng năng xuất lao động,
hạ giá thành sản phẩm.
Hàng ngàn đoàn viên, thanh niên đã tình nguyện vào làm việc ở các ngành:
khai thác than, gỗ, thăm dò địa chất, khảo sátbất chấp những thử thách khắc
nghiệt cảu núi rừng Tây Bắc, của gió nóng và giá rét, những người lao động trẻ
tuổi, lần đầu làm quen với những kỹ thuật tiên tiến, không quản ngày đêm lội suối,
trèo đèo. Thi đua với đoàn 8 địa chất, họ luôn sẵn sàng nhận những phần việc khó
khăn. Nhiều khi phải ngủ lại giữa rừng sâu, họ vẫn miệt mài, tìm kiếm tài nguyên
cho Tổ quốc. Trên các công trường xây dựng cơ bản, cầu đường nơi nào khó khăn
nhất ở đó có đoàn viên, thanh niên. Họ đã đem sức lao động của tuổi trẻ bạt núi,
san đồi, xây dựng những công trình, nhà máy, xí nghiệp, đường giao thông…
Thi đua thực hiện 8 giờ vàng ngọc và với tinh thần "ngày thứ bảy
đấu tranh thống nhất nước nhà", "mỗi người làm việc bằng hai vì miền
Nam ruột thịt", đoàn viên và thanh niên trong các xí nghiệp, công trường
thường xuyên lao động khẩn trương, tích cực và mạnh dạn phát huy sáng kiến, cải
tiến kỹ thuật, không ngừng tăng năng xuất lao động.
Thanh niên ngành cơ khí thường xuyên duy trì phong trào phát huy sáng
kiến, cải tiến kỹ thuật. Nhiều sáng kiến đã đưa năng xuất tăng lên gấp 2 -3 lần.
Sáng kiến rèn bu lông đưa năng xuất tăng từ 18 lên 60 cái một công, rèn được từ
160 lên 380 cái/công. Thanh niên ngành điện nước, ngoài việc đảm bảo phục vụ ánh
sáng và nước cho các xí nghiệp, cơ quan và nhân dân ở các thị xã, thị trấn,
tham gia trồng cột điện cao thế đã đưa năng xuất tăng lên 200%. Trên các công
trường xây dựng cơ bản: thị xã Sơn La, xi măng chiềng pấc, bệnh viện các công
trường làm đường, thanh niên đã phát huy nhiều sáng kiến, tiết kiệm nguyên vật
liệu, sử dụng nguyên liệu tại chỗ… góp phần giảm bớt chi phí vận chuyện, năng
suất lao động tăng.
Đoàn viên và thanh niên ngành bưu điện luôn đảm bảo thông tin liên lạc
kịp thời, chính xác. Học tập tinh thần Trần Văn Giao một đoàn viên tận tuỵ của
ngành bưu điện tỉnh, nhiều bưu tá trẻ đã chuyển hàng trăm bức thư không rõ địa
chỉ. Nhiều sáng kiến có giá trị được phát huy. Tiêu biểu là việc đoàn viên,
thanh niên mạnh dạn sửa chữa máy điện cũ 7KW thành máy phát sóng được và sửa chữa
nhiều máy điện thoại cũ khác, góp phần tích cực phục vụ nhiệm vụ chính trị, phục
vụ sản xuất và đời sống của nhân dân các dân tộc.
Trong các hợp tác xã tiểu, thủ công nghiệp, thanh niên đã tận dụng
nguyên liệu tại chỗ, sản xuất thêm mặt hàng, phục vụ nhu cầu sản xuất và tiêu dùng
của địa phương.
Trong các cơ quan hành chính sự nghiệp và trường học, thanh niên không
ngừng cải tiến tổ chức, cải tiến lề lối làm việc và tác phong công tác, tăng hiệu
suất lao động. Nhiều đoàn viên, thanh niên trong các bệnh viện, bệnh xá đã nêu
cao tinh thần thầy thuốc như mẹ hiền, tận tình chăm sóc bệnh nhân, nhiều người đã
thức thâu đêm tình nguyện tiếp máu, cho da để cứu chữa bệnh nhân.
Thực hiện phương trâm "giảng dạy và học tập gắn liền với thực tế
lao động sản xuất và đời sống xã hội". Phần lớn các trường học trong tỉnh đều
có cơ sở thí nghiệm. Hàng trăm giáo cụ trực quan đã được giáo viên và học sinh
tìm tòi, chế tạo phục vụ công tác giảng dạy và học tập. Thanh niên giáo viên đã
không ngừng nghiên cứu cải tiến phương thức giảng dạy, nâng cao các giờ lên lớp.
Thời gian này hàng loạt giáo viên trẻ từ miền xuôi tình nguyện lên Tây Bắc công
tác. Nhiều người đã trở thành những giáo viên vừa dạy giỏi, vừa tích cực tham
gia công tác địa phương.
Hoạt động Đội ngày càng được các cấp bộ Đoàn và nhà trường quan tâm,
góp phần giáo dục các em theo 5 điều Bác Hồ dạy. Thông qua các phong trào thi đua
"hai tốt", "Bắc Lý", thi đua giành danh hiệu học sinh giỏi
và các hoạt động theo chủ đề như: Em yêu hạt lúa vàng, hợp tác xã măng non, vào
thăm Tây Nguyên… đã có tác dụng nâng cao tinh thần yêu nước, yêu CNXH, tinh thần
đoàn kết cho thiếu niên nhi đồng, động viên các em ham học, chăm làm. Rèn luyện
cho các em tính vui vẻ hoạt bát, tính kỷ luật, trật tự. Nhất là trong phong trào
"nghìn việc tốt" đã kích thích tính tự giác của các em, làm nhiều việc
thiết thực. Chỉ riêng 6 tháng đầu năm 1963 ở một số trường các em đã làm ngót
12 ngàn việc tốt, trồng trên 12 ngàn gốc sắn, 873 cây các loại. Nhiều em nhặt được
của rơi đã tự trả lại cho người mất. Tiêu biểu như em Hải - Mường Sang (Mộc Châu)
nhặt được một áo bông, 500 đồng và 2 bút máy loại tốt đã trả lại cho người mất.
Các em Nguyễn Đình Vắng (nông trường Tô Hiệu), Nguyễn Gia Điển (thị xã Sơn La)
…. đều thể hiện tính thật thà, không ham của rơi, đã được Bác Hồ tặng thưởng.
Thời gian này trên chiến trường miền Nam, "Chiến tranh đặc biệt"
của Mỹ đang lâm vào tình thế thất bại thảm hại. Để cứu vãn tình thế, đế quốc Mỹ
ồ ạt đổ quân vào trực tiếp tham chiến, đồng thời đưa không quân ra đánh phá miền
bắc, hòng chặn đứng sự chi viện của hậu phương lớn cho tiền tuyến, triệt phá tiềm
lực của cuộc kháng chiến và từ đó làm lung lay ý chí chiến đấu của nhân dân Việt
Nam.
Trong 2 ngày 27 và 28 tháng 3 năm 1964, TW Đảng và Hồ Chủ tịch đã
triệu tập Hội nghị chính trị đặc biệt tại thủ đô Hà Nội, đề ra một số chủ trương
cấp bách nhằm động viên nhân dân cả nước vượt qua mọi khó khăn thử thách, vươn
lên hoàn toàn thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược. Bộ chính trị và BCH TW Đảng
trong hội nghị lần thứ 11 (họp tháng 3 - 1965) và lần thứ 12 (họp 12 - 1965),
thể hiện ý chí và nguyện vọng của toàn dân đã nêu cao quyết tâm động viên mọi lực
lượng, kiên quyết đánh bại cuộc chiến trang xâm lược của đế quốc Mỹ trong bất kỳ
tình huống nào, nhằm hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc, dân chủ trong cả nước,
tiến tới thực hiện hoà bình thống nhất nước nhà.
Chủ tịch Hồ Chí Minh kêu gọi: "Lúc này chống Mỹ cứu nước là nghĩa
vụ thiêng liêng nhất của mọi người Việt Nam yêu nước. Tất cả chúng ta hãy đoàn
kết nhất trí, triệu người như một, quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược".
Sơn La là một tỉnh nằm ở địa bàn chiến lược quan trọng, án ngữ phía
Tây Bắc Tổ quốc, có đường biên giới chng với nước bạn Lào dài trên 250 km. Nhân
dân các dân tộc Sơn La có truyền thống đấu tranh cách mạng, nhưng do điều kiện
lịch sử, trình độ phát triển không đồng đều, những hủ tục lạc hậu vẫn tồn tại.
Kẻ địch luôn tìm mọi cách gây mất ỏn định chính trị ở nhiều địa phương. Từ năm
1963 đến cuối năm 1964, Mỹ liên tiếp cho máy bay xâm phạm vùng trời Sơn La, hoạt
động trinh sát, thả 16 vụ biệt kích, thám báo và rải truyền đơn gây tâm lý
hoang mang trong nhân dân và thả dù hàng hoá xuống một số nơi để mua chuộc nhân
dân. Phía ngoại biên thuộc Lào chúng ráo riết mở rộng căn cứ Pa Thi, xây dựng các
đơn vị vũ trang áp sát biên giới, điều tra tình báo và móc nối gây cơ sở phản động
nội địa tỉnh Sơn La.
Dưới sự lãnh đạo trực tiếp của tỉnh uỷ, Đoàn thanh niên Sơn La đã không
ngừng giáo dục đoàn viên và thanh niên tinh thần cảnh giác cách mạng, động viên
thanh niên tích cực tham gia xây dựng củng cố quốc phòng. Nhiều đoàn viên và
thanh niên đã hăng hái lên đường làm nghĩa vụ quân sự, vào dân quân tự vệ. Thực
sự đi đầu xây dựng các lực lượng vũ trang, bán vũ trang, sẵn sàng đáp ứng tốt
nhất yêu cầu của tiền tuyến để đánh thắng giặc Mỹ xâm lược trong bất kỳ tình huống
nào, đồng thời tích cực củng cố hậu phương vững mạnh, kiên quyết giữ gìn trật tự,
trị an cả biên giới và nội địa. Hầu hết các đơn vị vũ trang có trên 90% đoàn viên,
thanh niên. Anh em tiếp thu kỹ thuật, chiến thuật nhanh chóng, đáp ứng kịp thời
nhiệm vụ chiến đấu. Tiểu đoàn bộ đội địa phương 428 được thành lập ngày
23-9-1965, chỉ huấn luyện trong một thời gian ngắn đã lên đường làm nhiệm vụ quốc
tế, chiến đấu trên chiến trường Bắc Lào. Các đơn vị vũ trang địa phương dân quân
tự vệ đứng chân ở các địa bàn trọng điểm đều trong tư thế sẵn sàng. Các đơn vị
công an nhân dân, công an vũ trang biên phòng, dân quân tự vệ phối hợp chặt chẽ
đảm bảo an ninh trật tự trên địa bàn, kịp thời vây bắt nhanh gọn 16 toán biệt kích
thám báo, triệt phá kịp thời các hoạt động nhen nhóm phản cách mạng.
Chấp hành nghị quyết của tỉnh uỷ về chuyển hướng mọi hoạt động của tỉnh
từ thời bình sang thời chiến (tháng 5 - 1965) đoàn viên và thanh niên trong tỉnh
"nêu cao tinh thần cách mạng tiến công, tự lực cánh sinh, bất kỳ tình huống
nào cũng đảm bảo thực hiện hầu cần tại chỗ, phục vụ chiến đấu thắng lợi, bảo đảm
nền kinh tế trong tỉnh tiếp tục phát triển không ngừng, bảo đảm đời sống của nhân
dân các dân tộc trong thời chiến, đồng thời thiết thực chuẩn bị điều kiện phát
triển kinh tế toàn diện sau này được nhanh, mạnh và vững chắc. Đoàn viên và
thanh niên ở các cơ sở sản xuất đã dũng cảm, vượt qua nhiều khó khăn, gian khổ
di chuyển kho tàng, máy móc, thiết bị vào nơi sơ tán. Thiếu nhân lực đoàn viên
và thanh niên đã tình nguyện làm thêm 83 vạn giờ công chống Mỹ, bốc dỡ hàng trăm
tên hàng hoá, không kể ngày nghỉ hay đêm khuya, mưa rét.
Mỗi bản, mỗi mường, mỗi hợp tác xã, mỗi xí nghiệp, công trường… đều
trở thành "pháo đài diệt Mỹ". Cả Sơn La là một trận địa sẵn sàng, chủ
động đánh thắng địch trong bất kỳ tình huống nào, ngay từ ngày đầu, trận đầu.
III - SÔI NỔI KHÍ THẾ
"BA SẴN SÀNG", THANH NIÊN SƠN LA DŨNG CẢM LẬP CÔNG NGAY TỪ TRẬN ĐẦU,
GÓP PHẦN ĐÁNH THẮNG CUỘC CHIẾN TRANH PHÁ HOẠI LẦN THỨ NHẤT CỦA MỸ.
Ngày 5-8-1964, Mỹ đem không quân đánh phá một số điểm ở Thanh Hoá,
Quảng Ninh… 4 ngày sau đó, 9-8-1965, thanh niên Hà Nội xuống đường sôi sục khí
thế chống Mỹ, dấy lên phong trào quần chúng rộng lớn, phong trào "ba sẵn sàng!".
Sẵn sàng chiến đấu
Sẵn sàng nhập ngũ
sẵn sàng đi bất cứ đâu, làm bất cứ việc gì khi Tổ quốc cần.
Đầu năm 1965, Ban Thường vụ Trung ương Đoàn đã ra nghị quyết về công
tác "đẩy mạnh sản xuất và tích cực chuẩn bị sẵn sàng chiến đấu" và
quyết định "đẩy mạnh phong trào tình nguyện: ba sẵn sàng trong thanh niên
miền Bắc" Hội nghị BCH TW Đoàn TNLĐ Việt Nam lần thứ IX (khoá III) họp từ
ngày ngày 4 đến ngày 7 -5- 1965 đã quyết định nhiệm vụ của Đoàn lúc này là:
"Đoàn kết mọi lực lượng thanh niên yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, phát
huy cao độ chủ nghĩa anh hùng cách mạng; tổ chức, động viên bốn triệu đoàn viên
và thanh niên niềm bắc tiến lên hàng đầu trên mặt trận sản xuất, chiến đấu, học
tập và xây dựng cuộc sống mới, quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược trong bất
kỳ tình huống nào để bảo vệ miền Bắc, tích cực ủng hộ cách mạng giải phóng miền
Nam và đảy mạnh công cuộc xây dựng CNXH".
Nhiệm vụ chủ yếu đó chỉ cho các cấp bộ Đoàn và toàn thể đoàn viên,
thanh niên phương hướng hành động trên ba mặt cụ thể: Sản xuất và bảo vệ sản xuất,
chiến đấu và sẵn sàng chiến đấu, học tập và rèn luyện.
Hội nghị lần thứ 11 (Khoá III) của BCH TW Đảng vạch rõ nhiệm vụ của Đoàn:
"Đối với Đoàn cần phải đẩy mạnh phong trào "ba sẵn sàng" với nội
dung và hình thức mới". Tháng 7 - 1965, Ban Bí thư TW Đảng lại ra chỉ thị
"tổ chức, động viên 4 triệu thanh niên miền Bắc tiến lên hàng đầu trên mặt
trận sản xuất, chiến đấu và học tập, quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược".
Và tin tưởng trao cho thế hệ trẻ lá cờ mang dòng chữ: "Vì chủ nghĩa xã hội,
vì lý tưởng cộng sản, thanh niên anh dũng tiến lên!"
Là người luôn theo dõi từng bước tiến của thanh niên, Bác Hồ kêu gọi:
"Các cháu thanh niên, gái cũng như trai, hãy thực hiện tốt "ba sẵn sàng",
xung phong dân tất cả tinh thần và lực lượng của tuổi trẻ cho sự nghiệp chống Mỹ,
cứu nước, cho Tổ quốc và chủ nghĩa xã hội".
Nhân kỷ niệm lần thứ 20 quốc khánh nước Việt Nam dan chủ cộng hoà, Bác gửi thư căn
dặn thanh niên: "Phải luôn nâng cao chí khí cách mạng, "Trung với nước,
hiếu với dân, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù
nào cũng đánh thắng. không sợ gian khổ, hy inh, hăng hái thi đua tăng gia sản
xuất và anh dũng chiến đấu, xung phong đi đầu trong sự nghiệp chống Mỹ cứu nước...".
Đứng trước tình hình cả nước có chiến tranh, đại hội Đoàn toàn tỉnh
chưa tiến hành theo nhiệm kỳ được, hội nghị BCH tỉnh đoàn lần thứ 5 (khoá I) họp
tháng 4 - 1965, căn cứ vào chỉ thị, nghị quyết của Đảng, nghị quyết của Ban thường vụ và BCH Trung ương Đoàn, vào tình hình cụ
thể của tỉnh đã quyết định phương hướng nhiệm vụ của Đoàn và phong trào thanh
niên trong tỉnh, thời gian trước mắt: "Động viên toàn thể cán bộ, đoàn viên
thanh niên các dân tộc toàn tỉnh nêu cao chủ nghĩa anh hùng cách mạng và ý chí
quyết chiến thắng giặc Mỹ xâm lược, coi đó là nhiệm vụ thiêng liên nhất của
thanh niên, phát động mạnh mẽ phong trào
"ba sẵn sàng" vừa sản xuất vừa chiến đấu, chiến đấu anh dũng,
quyết đáp ứng yêu cầu của tiền tuyến và yêu cầu bảo vệ trị an, bảo vệ biên giới
miền Tây của Tổ quốc; phát huy tinh thần làm chủ tập thể, tính chủ động sáng tạo
trong lao động sản xuất, xây dựng, học tập và tổ chức đời sống, góp phần tích cực
làm cho Sơn La vừa chiến đấu, chiến thắng, vừa đủ sức cùng nhân dân và thanh niên
miền Bắc làm tròn nhiệm vụ của hậu phương lớn đối với tiền tuyến lớn miền Nam và
làm tròn nghĩa vụ quốc tế của mình.
Nắm bắt kịp thời ý chí của thanh niên các dân tộc, BCH tỉnh đoàn quyết
định động viên thanh niên trong tỉnh hưởng ứng phong trào "ba sẵn sàng",
đẩy mạnh sản xuất, chiến đấu, học tập và tổ chức đời sống. Chỉ sau hơn một tháng
phát động đã có gần 40 ngàn đoàn viên và thanh niên tình nguyện tham gia, trong
đó có 19 ngàn thanh niên tình nguyện lên đường tòng quân giết giặc, cứu nước.
Nhiều thanh niên từ trước, do những thủ tục lạc hậu trói buộc, chưa bao giờ đi
xa. Được khí thế "ba sẵn sàng" cổ vũ họ đã hăng hái tham gia công tác
xã hội, tham gia các hoạt động tập thể, vào dân quân tự vệ, thường xuyên luyện
tập quân sự, sẵn sàng chiến đấu và phục vụ chiến đấu.
Với tư thế sẵn sàng chủ động, thanh niên Sơn La đã cùng quân và dân
trong tỉnh lập công ngay từ trận đầu, ngày đầu, khi không quân Mỹ liều lĩnh xâm
phạm vùng trời cao nguyên Mộc Châu, bắn phá một vùng công nghiệp đang hình thành
của tỉnh. Ngày 14 -6 - 1965, trong thế trận đã dàn sẵn, các chiến sỹ trẻ được
huấn luyện kỹ càng các phương án tác chiến, khi máy bay Mỹ vừa lao đến, các cỡ
súng phòng không từ các trận đại ngay lập tức nhả đạn, 2 máy bay Mỹ bị bắn rơi
ngay tại chỗ.
Tiếp đó trong những ngày 20 và 22-6-1965, máy bay Mỹ liên tiếp đánh
phá ác liệt thị xã Sơn La, các chiến sỹ trẻ trên các trận địa phòng không ngoan
cường, dũng cảm ngẩng cao đầu "Nhằm thẳng quân thù, bắn", đánh trả
quyết liệt từng tốp "thần sấm", "con ma" của không lực Hoa
kỳ, hạ tại chỗ 7 chiếc. Trận thắng giòn giã tại thị xã Sơn La đã tạo ra khí thế
quyết thắng trong nhân dân các dân tộc. Ngày 23 - 6-1965, Bác Hồ gửi điện khen
ngợi: "Bác rất vui mừng trong những ngày 14, 20 và 22-6-1965, quân và dân
Mộc Châu và Sơn La đã bắn rơi 9 máy bay Mỹ, bắt sống một số phi công Mỹ. Thay mặt
Trung ương Đảng, chính phủ Bác gửi lời khen ngợi bộ đội, đồng bào và cán bộ các
dân tộc Tây Bắc đã anh dũng chiến đấu, thắng lợi vẻ vang.
Nguồn cổ vũ to lớn Bác Hồ dành cho quân và dân Sơn La càng củng cố
thêm niềm tin chiến thắng cho tuổi trẻ "ba sẵn sàng" trong tỉnh.
Bị thất bại trong những trận đánh phá đầu tiên vào Sơn La, máy bay
Mỹ càng điên cuồng bắn phá các cơ sở quốc phòng, kinh tế, các khu dân cư…
Đúng như dự đoán, mới đầu chúng đánh phá chủ yếu vào thị trấn, thị xã, các mục
tiêu quân sự và kho tàng. Từ cuối tháng 7-1965 đến cuối tháng 9-1956 chúng tập
chung đánh phá hệ thống giao thông và các phương tiện giao thông vận tải trên
trục quốc lộ 6 và các trục tỉnh lộ. Chúng bắn phá cả tuyến đường sông và tiếp
tục đánh phá thị xã Sơn La và các thị trấn. Từ tụ điểm đông dân cư, các điểm sơ
tán. Cường độ đánh phá ngày càng tăng. Khi phát hiện được mục tiêu chúng thường
tập chung đánh phá dồn dập, có tính huỷ diệt. Chỉ tính đến ngày 30-11-1965, máy
bay Mỹ đã đánh phá 213 điểm trên phạm vi toàn tỉnh, với trên 6.300 quả bom các
loại và nhiều tên lửa.
Bám sát sự chỉ đạo của cấp uỷ Đảng địa phương, thanh niên các dân tộc Sơn La
luôn phát huy vai trò xung kích của tuổi trẻ "ba sẵn sàng", đi đầu
trong mọi công tác chuẩn bị sẵn sàng chiến đấu đánh trả máy bay mỹ khi
chúng tiến hành chiến tranh phá hoại các cơ sở kinh tế, quốc phòng cũng
như các điểm dân cư, bênh viện, trường học, góp phần ổn định sản xuất và
đời sống nhân dân trong tỉnh.
Khi tỉnh uỷ chỉ đạo thành lập rộng rãi các tổ dân quân, tự vệ chiến
đấu bắn máy bay mỹ bằng súng bộ binh, tăng cường lưới lửa phòng không nhân
rộng khắp, tận dụng địa hình đồi núi cao thuận lợi cho việc săn bắn máy bay Mỹ,
tổ chức đoàn các cấp đã kịp thời động viên đoàn viên tham gia, làm nòng
cốt trong các tổ trực chiến 80% thanh niên đã tham gia dân quân tự vệ,
tăng gấp 3 lần năm 1964. Nhờ tích cực luyện tập, nắm vững những kiến thức cơ
bản về việc sử dụng súng bộ binh bắn máy bay phản lực, nhiều tổ chiến đấu
của dân quân tự vệ do thanh niên làm nòng cốt đã lập công ngay từ
trận đầu. Tổ dân quân của Lò Văn Sáng (Mường La) đã dùng súng bộ
binh hạ một máy bay F1-5 của Mỹ ngày 287-8-1956. Kinh
nghiệm của tổ dân quân Lò Văn Sáng kịp thời được phổ biến rộng rãi,
củng cố thêm niềm tin cho nhân dân các dân tộc, có thể đánh thắng máy bay
phản lực Mỹ bằng các loại súng tầm thấp, đặc biệt ở vùng sâu, vùng xa. Ngày
3-9-1965, quân dân xã Tông Lệnh (Thuận Châu) dùng súng bộ binh bắn rơi máy bay
F105 là xã vùng cao đầu tiên trên miền Bắc bắn rơi máy bay Mỹ. Liên tiếp sau đó
là dân quân Chiềng Đông (Yên Châu), Tú Nang (Mộc Châu), … cũng bắn rơi máy bay
mỹ bằng súng bộ binh rộng khắp. Đoàn viên Mùa Lao Chu người dân
tộc Mông đã lấy thân trâu làm giá súng bắn máy bay Mỹ. Đoàn viên
Giàng A Dênh dùng súng trường bắn máy bay trực thăng của Mỹ khi chúng
đến cứu đồng bọn, giết chết tên giặc lái đang leo lên thang máy bay. Nữ
đoàn Viên Giàng Thị Hướng, người con gái Sơn La đầu tiên bắt sống giặc lái
mỹ, khi chúng vừa chạm chân xuống đất. Chị đã được tặng thưởng huân chương
chiến công hạng ba. Thanh niên các dân tộc trong tỉnh, trên mọi mặt trận, sản
xuất cũng như chiến đấu, học tập, rèn luyện và xây dựng cuộc sống… Đều
thể hiện rõ nét ý chí "3 sẵn sàng", không ngần ngại gian khổ hi
sinh, một lòng một dạ chiến đấu bảo vệ quê hương. Nhiều đoàn viên và
thanh niên trong các đội trực tuyến đã ngày đêm theo dõi phát hiện từng
hành động của máy bay Mỹ khi chúng xâm phạm vùng trời Sơn La. Những đoàn viên
thanh niên làm nhiệm vụ thông tin liên lạc, không quản hiểm nguy, vượt qua bom
đạn địch kịp thời nối mọi đường dây bị đứt, phục vụ chỉ đạo chiển đấu.
Đoàn viên là thanh niên luôn là những người đi đầu trong mọi gian lao thử
thách. Thanh niên trong lực lượng công an nhân dân, công an vũ trang bền bỉ,
gan dạ, ngày đêm gắn bó với nhân dân các vùng biên giới xa xôi, hẻo lánh, xây
dựng phòng tuyến nhân dân vững chắc, kịp thời phát hiện và bắt gọn các toán
gián điệp biệt kích từ máy bay thả xuống, hoặc từ biên giới lọt vào, làm
thất bại mọi âm mưu của địch muốn gây rối loạn, làm mất an ninh chính trị,
an toàn xã hội ở vùng Tây bắc. Nhiều đoàn viên thanh niên trong ngành công an
đã lập công xuất sắc được Bác Hồ tặng huy hiệu của Người như các đồng chí:
Nguyễn Ký, Đào Thư, Lý Việt Quế, Cứ A Páo, Hoàng Kim Cương.
Thanh niên trong các xí nghiệp, công trường, hợp tác xã vừa ổn định sản xuất, vừa
đi đầu trong các phong trào hành động thiết thực "ngày công chống
mỹ", làm thêm phần việc cho nguời đi vắng", "giỏi một nghề, biết
nhiều nghề sẵn sàng thay thế phần việc của người đi xa". Sản xuất đuợc giữ
vững.
Chiến đấu trên tiền tuyến đoàn viên và thanh niên đại đội 403, 407 làm nhiệm vụ
trên mặt trận Bắc Lào ngay trận chiến đấu đầu tiên đã lập công xuất sắc,
đã được tặng thưởng huân chương. Sau một năm vừa xây dựng vừa chiến đấu đã
trở thành đơn vị Quyết Thắng. Nhiều đoàn viên và thanh niên khi đối mặt với
quân thù tỏ ra hết sức dũng cảm. Lường Văn Lương, chính trị viên phó đại đội,
cùng tổ 3 người chiến đấu liên tục nhiều giờ, đồng đội bị thương, vấn kiên
cường chốt giữ vị trí tiền tiêu. Lò Văn Pun, thanh niên dân tộc thái, một mình
vẫn mưu trí chặn đứng sức phản công của cả một đại đội địch. Sùng A
Tủa, đoàn viên người dân tộc mông buổi đầu xung trận, gặp tình huống bất
ngờ đã nhanh chóng dùng B40 diệt gọn mục tiêu, mở đường xung phong cho bộ đội,
hạn chế được thương vong….
Cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân của Mỹ ngày càng trở nên quyết liệt.
Trên địa bàn Sơn La, từ tháng 3-1966, không quân Mỹ lại mở những cuộc bắn phá
mới, có tính huỷ diệt. Chúng sử dụng đủ loại máy bay phản lực hiện đại, đủ các
loại bom, đạn, kể cả bom bi, bom nổ chậm, napan, thậm chí cả chất độc hoá học.
Cường độ bắn phá ngày càng tăng, mục tiêu bắn phá ngày càng mở rộng. Trong hơn
3 năm, từ 1965-1968, Mỹ đã sử dụng trên 7000 lần tốp máy bay, đánh phá trên
2000 trận, cả ngày và đêm vào trên 1.500 điểm, ở thị xã Sơn La và các huyện lỵ,
các trung tâm nông lâm trường, xí nghiệp, các trường học, bệnh viện, công trình
văn hoá ở các địa bàn tập trung.
Chúng phá sập hoàn toàn hệ thống cầu trên quốc lộ 6 và các tuyến tỉnh lộ, các
bến phà…
Nắm vững diễn biến tình hình, đầu năm 1966, thi hành nghị quyết hội
nghị lần thứ 12 BCH TW Đảng (khoá III), BCH tỉnh Đảng bộ đã kịp
thời tổng kết công tác năm 1965 và quyết định những nhiệm vụ chủ
yếu của quân và dân Sơn La trong 2 năm 1966-1967. Trong đó xác định, nhiệm
vụ trung tâm vẫn là vừa sản xuất, xây dựng, vừa chiến đấu đánh thắng chiến
tranh phá hoại của đế quốc Mỹ, chuẩn bị ứng phó với tình huống chiến tranh cục
bộ, đồng thời thực hiện tốt nhất nhiệm vụ chi viện tiền tuyến lớn với khẩu
hiệu: "Tiền tuyến cần người, Sơn La có đủ, tiền tuyến cần của, Sơn La sẵn
sàng".
Sau hội nghị cán bộ quán triệt, nghị quyết của tỉnh uỷ, tỉnh đoàn Sơn La đã bàn
nhiều biện pháp nhằm đẩy mạnh cao trào "ba sẵn sàng", trên cả 3 mặt,
chiến đấu và phục vụ chiến đấu, sản xuất và học tập, rèn luyện.
Các cấp bộ Đoàn trong tỉnh đã tập chung giáo dục động viên đoàn viên và thanh
niên phát huy khí thế "ba sẵn sàng", nỗ lực phấn đấu thực hiện
những nhiệm vụ trọng tâm Đảng đã chỉ ra.
"Trên mặt trận chiến đấu chống Mỹ, cứu nước", tuổi trẻ
"Ba sẵn sàng" Sơn La đã hăng hái lên đường ra tiền tuyến. Là tỉnh
miền núi, dân số và lực lượng lao động có hạn. Thanh niên các dân tộc còn bị
nhiều tập tục cũ ràng buộc. Nhưng được cổ vũ bởi khí thế "ba sẵn
sàng", nhiều đoàn viên và thanh niên người dân tộc đã lấy máu viết đơn
tình nguyện đi bộ đội để biểu thị quyết tâm của mình. Nhiều nữ thanh niên đã
tạm gác tình riêng, đảm đang việc nhà, để người thân lên đường đánh giặc. Nhiều
ông bố, bà mẹ ý thức rõ trách nhiệm của mình đã động viên con em nhập ngũ. Chỉ
riêng ở huyện Sông Mã có 990 đơn của gia đình tình nguyện cho con em gia
nhập lực luợng vũ trang. Bà Lừ Thị Lả (Yên Châu) đã có 4 con đi bộ đội, vẫn
tình nguyện đưa người con thư thứ 5 lên đường đi đánh Mỹ.
Các tổ chức cơ sở đoàn còn động viên thanh niên thực hiện tốt công tác hậu
phương quân đội, thường xuyên chăm sóc, giúp đỡ các gia đình liệt sỹ, thương binh,
bộ đội, thanh niên xung phong. Nhiều nữ thanh niên đã tình nguyện lấy chồng
thương binh. Mở đầu phong trào từ năm 1966, Đoàn thanh niên xã Mường Hung (Sông
Mã) đã có 68 nữ thanh niên ghi tên đăng ký lấy chồng là thương binh. Lò Thị
Đôi, Lò Thị Nhọt (Mộc Châu), Nguyễn Thị Thành (công nhân vắt sữa nông trường
sao đỏ), và nhiều chị em ở các huyện khác, mặc dầu tuổi đời còn rất trẻ
vẫn đăng ký tình nguyện lấy chồng là thương binh từ loại 3 trở lên, coi như đó
là niềm vinh dự, là niềm hạnh phúc rất đáng tự hào.
Chỉ tính trong 3 năm, từ năm 1966-1968, đã có gần 4000 thanh niên trong tỉnh
(chiếm xấp xỉ 1,5% dân số) nhập ngũ, phần lớn những thanh niên đó đã được bổ
xung cho các đơn vị chủ lực, số khác tham gia bộ đội địa phương. Ngoài tiểu
đoàn 428 thành lập từ năm 1965, tỉnh đã thành lập thêm 3 đại đội bộ đội địa
phương ở huyện, một trung đội ở vùng cao Thuận Châu và một đại đội pháo cao xạ
bộ đội địa phương. Nhiều xã đạt tỉ lệ huy động thanh niên nhập ngũ cao như
Mường Bang (Phù Yên) tới 7,13% dân số: Chiềng Sàng (Yên Châu) 6,8%; Quang Minh
(Mộc Châu) 6,5%....
Những thanh niên chưa có điều kiện nhập ngũ đã hăng hái tham gia lực lượng dân
quân tự vệ. Năm 1968, tổng số dân quân tự vệ của tỉnh đã chiếm 13,5% dân số,
tăng 5,5 % lần so với năm 1965. Lực lượng dân quân tự vệ lúc này được tổ chức
lại theo đơn vị hợp tác xã, bán xí nghiệp nông lâm trường, cơ quan, đảm bảo
chiến đấu trước mắt, đồng thời chuẩn bị đối phó nếu tình huống chiến tranh cục
bộ xẩy ra. Toàn tỉnh đã thành lập được 174 tổ chiến đấu độc lập, 112 trung đội,
664 tiểu đội. Ngoài ra có 84 tiểu đội du kích cơ động xã, 64 trung đội cơ động
tuyến và cụm, 8 trung đội cơ động huyện. Tỉnh còn thành lập hàng trăm tổ chuyên
môn như trinh sát, công binh, thông tin, hoá học, cứu thương.
Hàng ngàn thanh niên "ba sẵn sàng" lần lượt được tổ chức
thành đội ngũ, đóng góp hàng triệu ngày công phục vụ chiến đấu trong phạm vi
tỉnh cũng như trên đất bạn Lào. Chỉ trong 4 tháng đầu năm 1968, tỉnh đã huy
động được 45 vạn ngày xông vận chuyển hàng ngàn tấn vũ khí, đạn dược và lương
thực, thực phẩm sang chiến trường Bắc Lào, đáp ứng kịp thời yêu cầu của bạn.
Ngay trên địa bàn tỉnh, nhiều Đoàn viên thanh niên đã dũng cảm vượt qua mưa
bom, bão đạn chuyển đạn vào trận địa, cứu chữa đồng bào, bảo vệ tài sản của
nhà nước... Thanh niên bản Muỗng (Phiềng Luông - Mộc Châu), 16 nữ thanh niên bản
Na Khái (Chiềng An - Yên Châu) là những người đầu tiên tự động tổ chức lực lượng
lên trận địa góp lá nguỵ trang, góp dẻ lau súng. làm nhiệm vụ tiếp đạn, động
viên bộ đội nhằm thẳng quân thù, bắn.
Nhiều tấm gương dũng cảm xuất hiện. Chiến sĩ dân quân (Lò Văn Hắc
(Mường La) làm nhiệm vụ trực phòng không ở trong một trọng điểm địch thường
xuyên đánh phá ác liệt, đã bình tĩnh, dũng cảm theo dõi quy luật đánh phá
của địch, báo động kịp thời cho bà con đang sản xuất trên đồng phòng
tránh. Trong chiến đấu Hấc rất gan dạ và đã hi sinh anh dũng. Anh được truy kết
nạp vào Đảng Cộng sản Việt Nam.
Nữ đoàn viên Nguyễn Phương Nguyên (dược phẩm) bị thương dập 2 đầu gối vẫn vững
vàng động viên chỉ em làm nhiệm vụ, Phạm Ngọc Duy (trường Sư phạm tỉnh) bị
thương vẫn bình tĩnh cứu chữa những học sinh bị thương chuyển các em ra khu an
toàn. Nữ đoàn viên Vi Thị Kim Tuyến cùng tập thể chi đoàn đường dây ty bưu điện
tham gia chiến đấu liên tục 13 trận, vừa dũng cảm đánh trả máy bay Mỹ, vừa
nhanh chóng nối liền mạch máu lưu thông tin liên lạc, không thể để một phút ách
tắc đường dây thông tin.
Trong những năm đầu chống chiến tranh phá hoại của Mỹ, tất cả
các trạm biên phòng của Sơn La đều bị đánh phá. Các đơn vị Pa Háng, Chiềng
Khương, Sốp Cộp, cơ quan tỉnh bộ bị đánh đi đánh lại nhiều lần có tính huỷ
diệt. Trạm Sốp Cộp phụ trách 5 xã, có nhiều kho hàng của nhà nước, bị
chúng đánh phá nhiều nhất... Trong một trận chiến đấu, địch ném xuống doanh trại
của đơn vị 28 quả bom hạng nặng. Tổ trực chiến phòng không do Đinh Hòng Diện
chỉ huy đã dũng cảm chiến đấu bắn rơi 1 máy bay F105D khi chúng đang lao xuống
cắt bom. Cũng ở trạm Sốp Cộp đã không quản nguy hiểm xông vào lửa cứu được
62 nóc nhà khỏi bị cháy. Tổ công tác của đồng chí Cảnh giữa lúc địch đang đánh
phá đã phối hợp cùng dân quân xã Mường Và cứu 1000 tấn lương thực dự trữ
cho chiến trường.
Trạm Chiềng Khoang làm nhiệm vụ ở một địa àn có nhiều cơ quan
nhà nước đã thường xuyên phối hợp trong công tác phòng gian bí mật, giúp đỡ các
cơ quan đào hầm cất giấu tài liệu, tài sản, đã bỏ ra hàng ngàn công giúp các cơ
quan sơ tán,bảo vệ kho tàng. Trong chiến đấu đơn vị đã bị máy bay Mỹ đánh
lại nhiều lần, không những đơn vị bảo toàn được lực lượng, còn bắn rơi 1
máy bay F105 và bắn bị thương 1 chiếc khác. Trạm được nhà nước tặng thưởng huân
chương chiến công hạng 2.
Đại đội 2 công an nhân dân vũ trang bị địch đánh vào trận địa, bom nổ cách 10
mét, dưới sự chỉ huy của Lò Văn Minh, các chiến sĩ trẻ đã ngoan cường đánh trả
máy bay Mỹ. Đoàn viên Vũ Văn Năm lấy thân mình là giá súng cho đồng đội cơ động
bắn máy bay. Kết quả 1 máy bay Mỹ đã bị đơn vị bắn rơi ở Chiềng Xôm.
Giữ gìn an ninh ở một tỉnh miền núi có nhiều dân tộc như ở Sơn La là một công
tác phức tạp. Trong những năm tiến hành chiến tranh phá hoại ở Sơn La địch vừa
kết hợp dùng không quân đánh phá có tính huỷ diệt nhiều mục tiêu quan trọng của
tỉnh, vừa tăng cường biệt kích hoạt động phá hoại. Chúng đặc biệt coi trọng xây
dựng căn cứ ở ngoại biên. Chúng tổ chức khu hành chính Pa Thi, Khăm Mun, Pha
Bong, Nông Nôn, đối diện với Sơn La, lập căn cứ ra đa trên điểm cao pa Thi,
1752 mét, để hướng dẫn máy bay từ căn cứ xuất phát bên Thái Lan sang đánh phá
các mục tiêu trên miền bắc Việt Nam.
Các tổ chức đoàn trong lực lượng công an nhân dân, công an vũ trang luôn giáo
dục đoang viên, thanh niên,thường xuyên nêu cao cảnh giác, nhận rõ âm mưu của
kẻ thù, sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu thắng lợi. Nhiều đoàn viên và thanh
niên đã bền bỉ gắn bó cùng nhân dân và thanh niên các vùng biên giới xa xôi hẻo
lánh xây dựng cơ sở, xây dựng phòng tuyến nhân dân vững chắc, kịp thời
phát hiện và bắt gọn nhiều toán gián điệp, biệt kích từ máy bay thả xuống hoặc
từ biên giới lọt vào, chiến sĩ công an Vì Minh Cương, một thanh niên luôn có ý
thức chấp hành nghiêm kỷ luật. Nhiều lần nhận nhiệm vụ phải vượt qua trên 100
km đường đi bộ, đèo cao núi dốc Cương vẫn không quản ngại, một mình băng rừng
vượt suối, kịp truyền đạt mệnh lệnh chiến đấu. Chiến sĩ Cầm Minh Chiêu tận tuỵ
công tác, bền bỉ xây dựng cơ sở. Bước vào trận chiến đấu đã anh dũng, mưu trí
cùng đồng đội quật ngã kẻ địch lợi hại.
Chiến đấu bảo vệ quê hương, thanh niên Sơn La, dưới sự chỉ đạo trực tiếp của
tỉnh uỷ, còn sẵn sàng chiến đấu trên đất bạn Lào, coi đó không chỉ là
nghĩa vụ quốc tế, còn là sự cần thiết phối hợp chiến đấu, đánh địch từ xa, đẩy
chúng ra xa biên giới, tạo hành lang bảo vệ sự ổn định của tỉnh. Ngoài tiểu
đoàn bộ đội địa phương được cử sang phối hợp chiến đấu với các bạn Lào từ cuối
năm 1965, tỉnh còn đưa đại đội vũ trang 2 huyện Yên Châu, Mộc Châu sang nước bạn
chiến đấu ở 2 huyện Xiềng Khọ, Mường Son thuộc tỉnh Hủa Phăn, theo yêu cầu của
bạn. Phần lớn các chiến sĩ ở các đơn vị vũ trang này còn đều rất trẻ. Họ đã ra
đi theo tiếng gọi "Ba sẵn sàng". Các chiến sỹ đều chiến đấu rất dũng
cảm, liên tục đánh địch trên 30 trận, tiêu diệt hàng ngàn tên, giải phóng một
vùng có hơn 20.000 dân, giúp bạn xây dựng cơ sở chính trị và lực lượng vũ trang
tại chỗ, góp phần vun đắp tình hữu nghị Việt - Lào.
Giao thông vận tải trong những năm kháng chiến chống Mỹ luôn là mục tiêu đánh
phá của không quân Mỹ. Chúng đã đánh phá vào các tuyến đường, vào các bến phà,
cầu cống trong tỉnh 800 trận, bằng khoảng 1/3 số trận chúng đánh phá trên địa
bàn Sơn La, thời kỳ 1966-1967. Các tổ chức Đoàn thanh niên trong ngành giao
thông vận tải đã không ngừng động viên đoàn viên và thanh niên trong ngành nêu
cao ý chí quyết chiến, quyết thắng và tính tiên phong cách mạng, sẵn sàng đi
đến và nhận nhiệm vụ ở những nơi khó khăn gian khổ nhất để mở đường chiến
thắng, lấy cầu đường làm trận địa chiến đấu và mỗi chuyến xe qua an toàn là một
chiến công. Nhiều tập thể chi đoàn đã lao động dũng cảm, không kể ngày đêm, mưa
nắng và cả bom đạn kẻ thù. Với quyết tâm "địch phá ta cứ đi", các
đoàn viên, thanh niên trong ngành giao thông vận tải đã bám sát cầu đường, sửa
chữa kịp thời những chiếc cầu, những đoạn đường địch đánh hỏng. Anh chị em còn
tổ chức nghi trang, nguỵ trang, chuẩn bị thêm nhiều phương tiện giao thông, mở
thêm những tuyến đường mới, đường tránh, mở rộng và nâng cấp mặt đường đảm bảo
giao thông thông suốt trong mọi tình huống, khi địch đánh phá ác liệt, cả trong
mùa khô, cũng như mùa mưa lũ.
Chi đoàn 51 công trường 118, chi đoàn 4 công trường 115 đoàn thanh niên, công
trường 116, chi đoàn đội cầu 43 các chi đoàn bảo dưỡng hạt 6, hạt 5, hạt 7 là
những đơn vị đảm nhiệm đảm bảo giao thông ở những trọng điểm địch thường xuyên
đánh phá ác liệt, như trọng điểm cầu Tà Vài, Hát Lót, Sơn La, cầu Nà Hà Y Thuận
Châu… Ngay từ những ngày đầu máy bay Mỹ đánh phá vào tuyến đường, nhiều cán bộ,
đoàn viên thanh niên đã tình nguyện vào các đội phá bom nổ chậm, các đội
chủ lục, sẵn sàng ứng phó trong mọi tình huống. Đoàn viên Nguyễn Thị Hồng, đoàn
viên Giang Thị Sợi không quản nguy hiểm đã chui xuống hút bom sâu, buộc giây
vào đuôi bom để đồng đội kéo bom ra khỏi mặt đường kịp sửa chữa đường, đảm bảo
thông xe, Lê Bá Tập, một đoàn viên 23 tuổi, phó Bí thư chi đoàn hạt giao thông
2, khi địch thả bom nổ chậm xuống tuyến đường do đơn vị phụ trách đã tình nguyện
chui xuống hút bom, để tìm cách phá, không may quả bom tự huỷ và Tập anh dũng
hy sinh. Đoàn viên Lê Hữu Xá làm nhiệm vụ trinh sát ở trọng điểm địch đánh phá ác
liệt đã bình tĩnh báo động kịp thời, đếm từng quả bom rơi, đánh dấu chính xác
những quả bom chưa nổ để đồng đội tháo gỡ.
Không chỉ đoàn viên và thanh niên
trong ngành giao thông vận tải, thanh niên ở các địa phương có đường giao thông
đi qua cũng hăng hái tham gia đảm bảo giao thông. Ngay từ những ngày đầu địch đánh
phá vào tuyến đường, thanh niên xã Chiềng An, Chiềng Hắc (Yên Châu), các đoàn
viên Quàng Thị Lĩnh, Quàng Thị E đã dũng cảm tham gia phá bom nổ chậm, lấp hố
bom, sửa đường, đảm bảo giao thông ngay trên các trọng điểm bắn phá của địch ở
cầu Tà Vài, cầu sắt Yên Châu.
Là lực lượng tiêu biểu của phong trào
"ba sẵn sàng" ra đời ngay từ những ngày đầu của cuộc kháng chiến chống
Mỹ, thanh niên xung phong chống Mỹ, cứu nước là một lực lượng đáng kể làm nhiệm
vụ phục vụ giao thông vận tải thời chiến. Đội 32 TNXP chống Mỹ, cứu nước (tập
trung) của Sơn La được giao nhiệm vụ ở đường mới từ Chờ Lồng đi Hăng Mon, dài
36km. Đội có 302 cán bộ, đội viên phần lớn tuổi đời còn rất trẻ, chưa quen xa
nhà, chưa biết các công việc phá đá, làm đường. Tuyến đường đơn vị được giao mở
mới hết sức hiểm trở. Nhiều đoạn vách đá cao dựng đứng. Buổi đầu không khỏi có
người ngần ngại. Thậm chí có người bỏ chốn. Dần dần tư tưởng đuợc xác định. Ra đi
theo tiếng gọi "ba sẵn sàng" phải làm sao cho xứng đáng! Các đợt thi đua
liên tục được phát động nhân các ngày lễ. Thi đua giữa các đơn vị, các cá nhân.
Tổ chức lao động ngày càng hợp lý. Công cụ lao động được cải tiến. Nhiều sáng
kiến, cải tiến được áp dụng, trong đó có sáng kiến đục lỗ mìn phá đá, sáng kiến
chàn đá dăm… Năng suất không ngừng tăng lên, 124% rồi 140%. Các đơn vị làm đá đều
vượt định mức được giao. Tiểu đội 8 đại đội 263 thường xuyên đạt 132 % mức kế
hoạch. Đơn vị còn được giao mở đường Nà Ngưu đi Sốp Cộp. Nhờ tổ chức lao động tốt
đã hoàn thành mở con đường trong một năm. Đoàn viên và thanh niên trong các đơn
vị vận tải với ý thức làm chủ và tinh thần quyết thắng, "yêu xe như con,
quí xăng như như máu" đã thường xuyên bảo dưỡng nâng cao chất lượng xe, thực
hiện "ngày xe tốt, sẵn sàng nhận xe xấu nhường xe tốt cho bạn, nhận kéo thêm
móc, nhận chạy trên những đoạn đường khó khăn nguy hiểm, lấy đêm thay ngày, dũng
cảm vượt bom đạn địch đưa hàng tới đích an toàn. Các đoàn viên Nguyễn Gia Thất,
Lò Văn Lọt, Quàng Văn Vinh… là những lái xe luôn dẫn đầu năng xuất vận chuyển của
đơn vị, đảm bảo xe tốt, dùng bền.
Trong những năm kháng chiến chống Mỹ
thanh niên ngành giao thông vận tải đã nhận xây dựng 47 công trình thanh niên,
trên tất cả các phần việc: đầu xe, đầu máy, cầu cống, đoạn đường. Vừa chiến đấu
vừa lao động sản xuất, học tập và rèn luyện, thanh niên ngành giao thông vận tải
đã có những cống hiến xứng đáng, trưởng thành nhanh chóng. Hàng trăm đoàn viên
và thanh niên được tặng danh hiệu chiến
sĩ thi đua rộng lớn đó đã đào tạo và rèn luyện nên những tấm gương tiêu biểu,
như nữ anh hùng lao động Nguyễn Thị My, luôn quên mình vì nhiệm vụ, không ngại
gian khổ hi sinh, được giao nhiệm vụ gì, trong hoàn cảnh như thế nào, cũng tìm
tòi sáng tạo, không những làm tốt phần việc được giao, còn lôi cuốn cả tập thể
cùng làm đạt kết quả tốt. Thanh niên tự vệ trong các đơn vị vừa làm tốt nhiệm vụ
bảo vệ an toàn trong sản xuất, vừa sẵn sàng chiến đấu dũng cảm khi máy bay Mỹ đánh
phá vào địa bàn hoạt động của đơn vị, lập nhiều chiến công suất sắc.
Kết thúc cuộc chiến đấu chống chiến
tranh phá hoại bằng không quân lần thứ nhất của Mỹ, với trên 3000 trận chiến đấu,
trong đó có tới 110 xã trong tổng số 140 xã trên toàn tỉnh trực tiếp tham gia đánh
trả máy bay Mỹ, bắn bị thương hơn 200 chiếc khác, nhiều giặc lái Mỹ bị chết hoặc
bị bắt sống. trong đó dân quân tự vệ bắn rơi 7 chiếc.
"Trên mặt trận xây dựng
CNXH" trong thời chiến, đoàn viên và thanh niên trong tỉnh đã không ngừng
phát huy vai trò xung kích cách mạng, góp phần củng cố quan hệ sản xuất mới,
lao động, cần cù, sáng tạo, mạnh mẽ tiến quân vào khoa học kỹ thuật.
Với "tay cày tay súng" thanh
niên nông thôn lấy ruộng rẫy làm chiến trường, cuốc cày làm vũ khí, vừa sản xuất
vừa chiến đấu. Các đội TNXP chống Mỹ cứu nước cơ sở, các tổ mũi nhọn, xung kích ngày đêm bám đồng ruộng, nương
rẫy, dũng cảm lao động sản xuất không kể ngày đêm. Sơn La một tỉnh miền núi đất
rộng, nhưng hầu hết các xã đều bị địch đánh phá. Chúng đánh cả vào ruộng lúa, nương
ngô. Để đảm bảo sản xuất, thanh niên các dân tộc trong tỉnh có phong trào đăng
ký làm thêm giờ, thêm buổi, nhận làm việc ở những nơi địch thường xuyên đánh phá
ác liệt. Địch đánh ngày, thanh niên tổ chức làm đêm. Địch đánh đêm, thanh niên
tổ chức làm ngày. Địch đánh cả ngày cả đêm thanh niên vừa chiến đấu vừa bảo vệ
sản xuất, vừa sản xuất, bảo đảm trong tình huống nào cũng không bỏ ruộng hoang.
Thanh niên bản Tác (Yên Châu) đã tổ chức lấp hố bom để cấy kịp thời vụ. Tổ
thanh niên xung kích của Chiềng Cơi (thị xã), Liên Tiến, Chiềng An, (Yên Châu),
Hua Na (Thuận Châu) đã tình nguyện đến gặt lúa ngay bên cạnh các trọng điểm địch
thường xuyên đánh phá. Thanh niên các xã Chiềng An (Mường La), Chiềng Cơi (thị
xã), Sập Vạt (Yên Châu) đã dũng cảm làm những mương phai bị phá, đảm bảo đưa nước
tưới ruộng, cày cấy kịp thời vụ.
Thanh niên các dân tộc trong tỉnh với
khí thế "ba sẵn sàng" đã đóng góp trên 60 vạn ngày công xây dựng các
công trình thuỷ lợi, góp phần hoàn thành 41 trạm bơm và thuỷ điện nhỏ, xây dựng
68 điểm cơ khí nhỏ phục vụ nông thôn. Nhiều nơi thanh niên đã tình nguyện khai
hoang mở rộng thêm diện tích ruộng nước, bãi bằng và đã đưa 400ha vào sản xuất.
Thanh niên các xã Chiềng Khoa, Tân Lập (Mộc Châu), Chiềng Khoang (Sông Mã), Chiềng
Ban (Mai Sơn)… là những cơ sở đoàn đã đi đầu khai hoang ruộng nước. Nhiều thửa
ruộng vừa khai hoang đã cho năng xuất cao ngay trong thời kỳ địch đánh phá ác
liệt.
Góp phần tăng năng xuất cây trồng,
thanh niên các dân tộc trong tỉnh vượt qua những tập tục lạc hậu đi đầu trong
phong trào làm phân bón ruộng. Thi đua dành danh hiệu dũng sĩ 1000 cân phân bón,
thanh niên đã tận thu các nguồn phân trong bản, làm phân xanh ủ tại ruộng, nung
vôi bón ruộng cải tạo đất… Hàng ngàn đoàn viên và thanh niên đã vượt chỉ tiêu
1tấn phân bón, đạt 2 đến 3 tấn.
Từ năm 1966, các tổ chức đoàn trong nông
thôn đã phát động phong trào nhận chăm sóc ruộng xa, ruộng xấu, làm ruộng thí
nghiệm, kết hợp chọn lọc giống đạt kết quả tốt. Cũng thời gian này phong trào xây
dựng cánh đồng năm tấn thắng Mỹ được triển khai ở một số vùng nông thôn.
Xây dựng cánh đồng năm tấn thắng Mỹ là
một bước đi mạnh dạn của các tổ chức Đoàn thanh niên nông thôn trong tỉnh, đưa
thanh niên nông thôn tiếp cận với những vấn đề mới mẻ về tổ chức quản lý cũng
như kỹ thuật thâm canh. Xây dựng cánh đồng 5 tấn thanh niên nông thôn đã cải tạo
lại đồng ruộng, xây dựng hoàn chỉnh hệ thống mương phai, mạnh dạn đưa giống mới
vào đồng ruộng, dùng thuốc trừ sâu, những cánh đồng 5 tấn thắng Mỹ của thanh niên,
cùng các biện pháp thâm canh đã góp phần tích cực vào việc phấn đấu đạt mục tiêu
5 tấn thóc/1ha/năm của nhiều hợp tác xã.
Tiêu biểu là đoàn viên, thanh niên
trong các hợp tác xã khai hoang từ các tỉnh Thái Bình, Hưng Yên, nơi khởi xướng
phong trào cánh đồng 5 tấn thắng Mỹ và đã đạt mục tiêu 5 tấn trên diện tích đại
trà lên Sơn La xây dựng quê hương mới. Anh chị em có nhiều kinh nghiệm thâm
canh, tăng năng suất cây trồng và đã đi đầu áp dụng các biện pháp kỹ thuật, cải
tạo đất, đưa giống mới vào đồng ruộng. Nhiều Hợp tác xã khai hoang ngay trong
những năm đầu đến những vùng đất mới đã đạt năng suất từ 8 đến 9,6 tấn/1ha như
các HTX Hải Sơn, Hưng Sơn, Song Mai (Sông Mã).
Các cơ sở đoàn ở vùng cao, rẻo giữa đã
từng bước tổ chức, động viên thanh niên các dân tộc đi đầu thực hiện phương hướng
định canh, bảo vệ rừng và thâm canh cây trồng từ việc bảo vệ rừng đầu nguồn, trồng
rừng chống xói mòn, giữ độ ẩm, đoàn đã động viên thanh niên làm nương, cày cuốc
ruộng bậc thang, để ổn định diện tích canh tác như các các HTX Hua Tạp, Bó Nhàn,
Kiến Thiết (Mộc Châu). Thanh niên dân tộc Dao ở các HTX Suối Lìn, xã Chiềng
Khoa (Mộc Châu) đã đi đầu khai hoang được gần 11ha ruộng nước là vùng dân tộc
Dao đầu tiên trong tỉnh làm ruộng. Mọi việc mới đầu bỡ ngỡ, từ cày bừa, gieo cấy
đến bón phân làm cỏ. Đoàn viên thanh niên trong HTX vừa học, vừa làm, từng bước
khắc phục khó khăn, áp dụng các biện pháp kỹ thuật tiên tiến vào thâm canh cây
trồng. Trong đó phân đoàn trưởng Bàn Văn Mình luôn là người dẫn đầu trong mọi
việc và kiên trì thuyết phục mọi người cùng làm theo. Anh được Nhà nước phong tặng
danh hiệu anh hùng lao động.
Các cơ sở Đoàn vùng cao các huyện Thuận
Châu, Mường La, Yên Châu còn tổ chức động viên hàng ngàn thanh niên tham gia xây
dựng các công trình thuỷ lợi, mở đường giao thông, đưa xe lên vùng cao, tạo điều
kiện phát triển sản xuất, lưu thông, phục vụ đời sống nhân dân và thanh niên các
dân tộc.
Trong cuộc vận động định canh, định cư
ở vùng cao, đoàn đã động viên thanh niên phát huy vai trò gương mẫu, tích cực
tham gia học tập, tuyên truyền, vận động mọi người thực hiện mọi chủ trương của
Đảng, tham gia xây dựng và thực hiện phương hướng sản xuất mới của HTX.
Cùng với sản xuất nông nghiệp, thanh
niên ở nhiều cơ sở đã đi đầu thực hiện các biện pháp thâm canh, bảo vệ rừng, tổ
chức khai hoang bãi vàng, sử dụng hợp lý và cải tạo nương dốc, khoanh núi
"nuôi rừng", trồng cây, tu bổ và đưa một số hợp tác vào chuyên sản xuất
nghề rừng, trồng cây công nghiệp. Nhiều nơi thanh niên được giao quản lý và tu
bổ, bảo vệ rừng. Thanh niên đã trồng được hơn 100 đồi cây, hàng cây thanh niên.
Diện tích rừng tái sinh ngày càng nhiều… góp phần tạo ra cơ sở vật chất ban đầu
của nền nông nghiệp vùng cao. Từ nền sản xuất độc canh tự túc, tự cấp nông nghiệp
của tỉnh đi dần vào phát triển toàn diện.
Hợp tác xã được củng cố và phát triển,
96% số hộ vùng thấp, 70% số hộ vùng cao, rẻo giữa đã vào HTX, tăng hơn năm 1963
là 38%. Đại bộ phận đã chuyển sang HTX bậc cao, quy mô bình quân 31 hộ. 200 HTX
có quy mô từ 41 đến trên 100 hộ, tỷ lệ cán bộ đoàn viên tham gia ban quản trị, đội
trưởng, đội phó sản xuất từ 10% năm 1963 đã tăng lên 30% năm 1968.
Trong các nông trường quốc doanh, đoàn
viên và thanh niên đã nhận đỡ đầu khâu yếu, việc khó, nhận xây dựng các công trình
thanh niên, đi đầu trong phong trào phát huy sáng kiến cải tiến kỹ thuật, góp
phần tăng năng suất lao động, các phần việc thủ công, việc áp dụng sáng kiến cải
tiến kỹ thuật, cải tiến tổ chức lao động đem lại hiệu quả rõ rệt. Nhờ lọc bỏ những
thao tác thừa, qua nhiều lần thao diễn kỹ thuật, năng suất hái chè, hái bông, dỡ
sắn, thu ngô… đã tăng lên từ 100 đến 700%. Nữ đoàn viên Nguyễn Thị Xuân Hường
(Nông trường Mộc Châu), người đầu tiên đã đưa năng suất hái chè đạt 220kg/1ngày.
Sau đó nhiều chị em khác đã nâng năng suất lên 200 đến 300kg/1 ngày.
Riêng Phạm Thị Kim Len đạt 430kg/1ngày
góp phần tích cực cùng nông trường thực hiện vượt mức kế hoạch, giảm lỗ cho nông
trường. Riêng nông trường Mộc Châu phấn đấu 5 năm liền có lãi.
Trong các ngành sản xuất công nghiệp,
tiểu thủ công nghiệp, trong các cơ quan hành chính sự nghiệp đoàn viên và thanh
niên đã đi đầu thực hiện thắng lợi chủ trương chuyển hướng sản xuất của Đảng, vừa
khẩn trương sơ tán và nhanh chóng ổn định sản xuất.
Là một tỉnh mới lập lại, cơ sở sản xuất
công nghiệp, thủ công nghiệp còn rất nghèo nàn, phương hướng sản xuất chưa ổn định
đã phải chuyển hướng sang thời chiến càng gặp nhiều khó khăn, tổ chức phải phân
tán thành những đơn vị nhỏ, máy móc thiết bị không đồng bộ, nguyên liệu, nhiên
liệu thiếu, nhân lực, nhất là công nhân kỹ thuật không đáp ứng được đòi hỏi của
sản xuất.
Các tổ chức cơ sở của Đoàn trong ngành
công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp đã không ngừng tăng cường công tác chính trị
tư tưởng làm cho đoàn viên và thanh niên quán triệt đường lối phát triển kinh tế
địa phương của Đảng và chủ trương chuyển hướng sản xuất trong tình hình có chiến
tranh. Các tổ chức cơ sở của Đoàn đã có nhiều hình thức tổ chức năng động, lôi
cuốn thanh niên đi vào thực hiện ba mục tiêu: Năng suất cao, chất lượng tốt, tiết
kiệm nhiều… Các nhóm khoa học trẻ, tổ hỗ trợ sáng kiến… xuất hiện ngày càng nhiều
ở các cơ sở sản xuất. Đoàn còn tổ chức các hội nghị những người có năng suất
cao. Tổ chức cho thanh niên nhận các công trình, xe máy thanh niên… Thiếu nguyên
vật liệu để sản xuất, đoàn động viên đoàn viên và thanh niên nghiên cứu tận dụng
nguyên liệu tại chỗ, dùng nguyên liệu địa phương để thay thế.
Thanh niên trong các ngành cơ khí, điện
đã góp phần tích cực chuyển hướng sản xuất phục vụ nông nghiệp có hiệu quả. Các
cán bộ kỹ thuật và thanh niên công nhân đã nghiên cứu, thiết kế và sản xuất thành
công các loại máy công tác phục vụ sản xuất nông nghiệp như máy cung cán bông,
máy nghiền thức ăn gia súc, máy đạp lúa, máy gieo hạt. Thiếu sắt thanh niên đã
tận dụng các vỏ bom để sản xuất lưỡi cày máy và nhiều công cụ khác. Các xí nghiệp
nông cụ huyện, phần lớn đều do thanh niên làm nòng cốt trong sản xuất đã có những
cải tiến góp phần khắc phục những thiếu thốn về nguyên vật liệu, về dụng cụ máy
móc, sản xuất các loại nông cụ thích hợp với yêu cầu sản xuất của nhân dân từng
vùng.
Thanh niên trong các ngành địa chất,
than, gỗ đã phấn đấu nâng cao giờ công có ích, phát huy nhiều sáng kiến cải tiến,
khai thác nguyên vật liệu, đáp ứng yêu cầu sản xuất, xây dựng của tỉnh và cung
cấp một phần cho Trung ương.
Các tổ chức đoàn trong các ngành bưu điện,
các công trường xây dựng cơ bản đã động viên đoàn viên, thanh niên vượt qua muôn
vàn khó khăn để hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. Thanh niên trong các đội đường dây
vô tuyến, bưu chính đã phát huy sáng kiến, nghiên cứu cải tiến cách vận chuyển
trồng cột, kéo dây, vừa đảm bảo chất lượng vừa rút ngắn thời gian, hoàn tềanh vượt
mức kế hoạch từ 20 ngày đến 1 tháng.
Trong các cơ quan hành chính sự nghiệp,
lưu thông phân phối, thanh niên có phong trào thi đua giành danh hiệu "Dũng
sĩ sáng kiến thắng Mỹ". Nhiều cán bộ nghiên cứu tổng hợp, cán bộ Khoa học
kỹ thuật, văn hoá, giáo dục, y tế, anh chị em làm công tác phục vụ, thống kê, kế
toán, đánh máy… đã tích cực nghiên cứu cải tiến lề lối làm việc, đưa chế độ
"hai định, ba báo" đi dần vào nề nếp tạo những chuyển biến mới trong
công việc, đi sâu vào kinh tế kỹ thuật, bám sát cơ sở, mạnh dạn đề xuất những
biện pháp tích cực phục vụ sự chỉ đạo của Đảng, chính quyền và các ngành chuyên
môn. Công tác Đoàn trong các ngành lưu thông, phân phối ngày càng phát huy tính
tích cực của thanh niên đi vào giải quyết những khâu yếu trong tổ chức quản lý,
phân phối, góp phần thúc đẩy sản xuất phát triển, phục vụ yêu cầu của chiến đấu
và đời sống.
Được rèn luyện thực tế sản xuất chiến đấu
thanh niên, công nhân viên chức đã không ngừng trưởng thanh về nhiều mặt, cả trình
độ chính trị, tư tưởng, cả trình độ kỹ thuật, quản lý,… Nhiều phương thức hoạt
động phong phú đã được các cơ sở đoàn vận dụng linh hoạt, sáng tạo, các tổ chức
khoa học kỹ thuật trẻ, các công trình xe, máy thanh niên. Các hội nghị tuổi trẻ
hiến kế, các trường lớp văn hoá kỹ thuật, cá nhóm thợ già kèm cặp thợ trẻ luôn
thu hút thanh niên tìm đến những cái mới, sáng tạo khoa học kỹ thuật, dám nghĩ,
dám làm. Trong 3 năm, từ 1966 đến 1968, thanh niên công nhân đã phát huy trên
3000 sáng kiến cải tiến có giá trị. Các chi đoàn kỹ thuật Ty công nghiệp, phân đoàn
Gò - Hàn (Xí nghiệp cơ khí tỉnh) Chi đoàn 14/4 nông trường Mộc Châu, chi đoàn Độc
lập lâm trường Chiềng Yên, phân đoàn tổ xe thanh niên công ty vận tải ô tô, phân
đoàn Hào Ba đoàn địa chất… là những cơ sở luôn có sáng tạo trong hoạt động, phù
hợp với thanh niên mang lại hiệu quản thiết thực.
"Trên mặt trận văn hoá, giáo dục,
học tập, rèn luyện và xây dựng cuộc sống mới", Tuổi trẻ "Ba sẵn sàng"
Sơn La đã có nhiều biện pháp, không ngừng nâng cao trình độ văn hoá, khoa học kỹ
thuật trong thanh niên. Các trường thanh niên vừa học, vừa làm ở tỉnh và ở các
huyện được xây dựng; các trường bổ túc văn hoá ở các xã, các nông trường, lâm
trường… phát triển, trong hoàn cảnh chiến đấu khẩn trương gần 20 nghìn thanh niên
vẫn theo học lớp bổ túc văn hoá tập trung, trường chuyên nghiệp hàng năm thu hút
gần 2000 thanh niên vào học, được bồi dưỡng về kỹ thuật lâm nghiệp theo sự phân
vùng kinh tế. Đội thanh niên xung phong chống Mỹ cứu nước 32 (tập trung) vừa sản
xuất vừa sẵn sàng chiến đấu vẫn đảm bảo 100% tham gia học tập và giảng dạy. Sau
gần 1 năm, 120 anh chị em mù chữ đã biết đọc, biết viết, khi hết nhiệm kỳ cán bộ
đội viên đều có trình độ, học lực nhất định. 50% đủ điều kiện để bổ sung cho các
ngành và chuyển sang các trường đào tạo. Đoàn thanh niên ngành GTVT, Đoàn thanh
niên cơ quan tỉnh, đoàn thanh niên cơ khí tỉnh, các đoàn xã Mường Tè, Tú Nang
(Mộc Châu), Mường Hung, Chiềng Đen (Sông Mã), Chiềng Ban (Mai Sơn), Thôm Mòn, Tông
Cọ (Thuận Châu): trong hoàn cảnh có nhiều khó khăn vẫn có 100% đoàn viên thanh
niên đi học, kể cả ngày mùa bận rộn thanh niên xã Mường Tè có 100% thanh niên
tham gia dậy và học. Đoàn viên và thanh niên trong xã đều có trình độ từ lớp 3
đến lớp 7, trở thành lá cờ đầu trong phong trào bổ túc văn hoá của tỉnh và được
Nhà nước tặng thưởng huân chương lao động hạng Ba.
Nhiều cán bộ, đoàn viên, thanh niên
trong tỉnh đã được cử đi học các trường Trung học chuyên nghiệp, sơ cấp, trung
cấp và đại học. Đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật của tỉnh được tăng cường nhanh
chóng. Từ chỗ cả khu Tây Bắc chỉ có 1 kỹ sư (1955) đến năm 1968 riêng Sơn La đã
có gần 300 cán bộ có trình độ đại học, trong đó hơn 70% là thanh niên.
Trong các trường học phổ thông, tổ chức
đoàn đã hướng sự nỗ lực của mình vào việc nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên.
Nhiều giáo viên đã thực sự gắn bó với nhân dân, vừa làm người dạy học, vừa là
nhân tố tích cực trong mọi hoạt động của địa phương. Nữ đoàn viên Nguyễn Thị
Minh Át, giáo viên trường Kiến Thiết (Mộc Châu) từ đồng bằng tình nguyện lên miền
núi dạy học đã nhanh chóng trở thành người con của đồng bào dân tộc Hmông, 2 lần
được Bác Hồ tặng danh hiệu của Người. Đoàn viên Nguyễn Văn Nhạn, giáo viên trường
cấp 1 - Chiềng Nơi, Mai Sơn 7 năm liền vừa dạy học vừa vận động nhân dân sản xuất,
được Nhà nước tặng thưởng huân chương lao động. Tổ chức của Đoàn trong trường học
ngày càng củng cố. Vai trò chính trị của chi đoàn được nâng cao. Ở các trường
chưa có chi bộ Đảng, chi đoàn đã đóng vai trò là trung tâm đoàn kết, giáo dục và
rèn luyện thanh niên, tạo điều kiện xây dựng Đảng trong nhà trường.
Công tác chăm sóc, giáo dục thiếu niên
nhi đồng ngày càng được quan tâm. Ngay từ khi bước vào cuộc chiến đấu chống chiến
tranh phá hoại của Mỹ, các tổ chức Đoàn đã động viên đoàn viên, thanh niên cùng
nhà trường di chuyển, xây dựng trường sở, hầm hố trú ẩn nhanh chóng ổn định chỗ
học cho các em. Tổ chức Đội trong nhà trường được củng cố và phát triển thu hút
50% số các em đến trường vào Đội. Nhiều đoàn viên có năng lực được phân công phụ
trách công tác thiếu nhi. Tổ chức hướng dẫn các em đẩy mạnh các hoạt động phù hợp
với lứa tuổi, gắn với các phong trào hành động, từng bước nâng cao tinh thần tự
quản cho các em, động viên các em hăng hái học tập, tham gia lao động sản xuất,
phục vụ chiến đấu theo sức mình, góp phần cùng cha mẹ, anh chị chống Mỹ, cứu nước.
Phong trào thi đua "Làm nghìn việc tốt, giành danh hiệu Cháu ngoan Bác Hồ"
được phát triển rộng rãi, thu hút hầu hết thiếu nhi tham gia. Trong học tập các
em tiến hành xây dựng góc học tập, đưa "Hai giời vàng ngọc" đi dần vào
nề nếp, nâng cao chất lượng ôn bài, học bài. Ngoài giờ học các em tích cực tham
gia lao động xây dựng hợp tác xã, làm phân bón, diệt sâu chuột, nhặt lúa rơi,
giúp các chú bộ đội đào công sự, lấy lá nguỵ trang, chăm sóc gia đình thương
binh,… 11 nghìn em đã phấn đấu đạt cháu ngoan Bác Hồ. Nhiều em đạt thành tích
xuất sắc được tặng huy hiệu của Người. Đó là các em: Hà Văn Yên đã cứu sống 4 bạn
nhỏ khỏi bị chết đuối, Lò Văn Lun nhặt được của rơi đã trả lại người mất. Hà Thị
Liên, bốn năm liền là cháu ngoan Bác Hồ, học giỏi toàn diện, cả bốn chị em Liên
đã nhiều lần nhặt được của rơi trả lại cho người mất, trong đó có tới 02 lạng vàng.
Hà Văn Phúc đã góp nhặt được 1000 kg phân giao cho hợp tác xã sản xuất…
Các mặt văn hoá, văn nghệ, thể dục, thể
thao được đẩy mạnh. Phong trào học và làm theo sách, báo phát triển rộng rãi.
Nhất là qua các đợt đọc sách "Sống như anh", "Hòn đất",
"Bất khuất", "Gương người tốt, việc tốt". Phong trào
"Cất cao tiếng hát chống Mỹ, cứu nước" được nhiều cơ sở đoàn chỉ đạo
chặt chẽ. Các tổ chức đoàn cùng với ngành chức năng đã mở nhiều lớp quản ca, củng
cố và đẩy mạnh các hoạt động văn nghệ nghiệp dư. Trong các xí nghiệp, cơ quan,
trường học, trạm, trại, trong các hợp tác xã, nông, lâm trường… Phong trào
"Tiếng hát át tiếng bom" luôn có sức cổ vũ mạnh mẽ tinh thần lao động,
học tập, công tác và tinh thần sẵn sàng chiến đấu, chiến đấu dũng cảm của đoàn
viên thanh niên.
Phong trào rèn luyện thân thể, nhất là
môn thể thao quốc phòng phát triển rộng rãi. Một số đơn vị đạt kết quả cao
trong rèn luyện. Trường cấp III Tô Hiệu 100% đạt tiêu chuẩn bắn súng phổ thông,
thanh niên xã Chiềng Mung đạt 92%. Trong Đại hội Thể dục thể thao các tỉnh miền
núi phía bắc đoàn viên và thanh niên Sơn La đã góp phần dành 4 huy chương vàng,
3 huy chương đồng. Là Thị Chanh bắn 60 viên đạn súng thể thao đạt 570 điểm dành
huy chương vàng.
Đẩy mạnh nếp sống cách mạng trong thời
chiến, đoàn viên thanh niên trong tỉnh đã đi đầu thực hiện 25 điều quy ước, đấu
tranh chống mọi hủ tục mê tín dị đoan, chống tệ tảo hôn, ở rể, cướp vợ, phê phán
tập tục quần hồn của thanh niên người Giao, chông các tập tục kinh kỵ có hại
cho sản xuất và sức khoẻ. Tổ chức lực lượng thanh niên tham gia xây dựng các công
trình phúc lợi công cộng, nhà trẻ, mẫu giáo, nhà tắm, các công trình vệ sinh,
thực hiện nếp sống mới, khẩn trương, lành mạnh, cần cù, giản dị, tiết kiệm…
Thông qua chiến đấu và lao động sản xuất,
học tập, rèn luyện tổ chức đoàn không ngừng được củng cố và phát triển 12.097
thanh niên đã được kết nạp vào đoàn, đưa tỷ lệ đoàn viên từ 21% năm 1963 lên 42%
trong tổng số thanh niên từ 15 - 30 tuổi. Việc phát triển đoàn viên thanh niên
trong thanh niên các dân tộc ít người, trong nữ thanh niên được chú trọng. Có
70% thanh niên người dân tộc, 31,4% nữ thanh niên trong tổng số đoàn viên mới kết
nạp. Tổng số đoàn viên được kết nạp trong các năm 1966, 1967 tăng hơn năm 1964 đến
30%. Tỷ lệ đoàn viên trong các lực lượng vũ trang chiếm 95 - 100%; trong thanh
niên công nhân, viên chức chiếm 86%; trong giáo viên chiếm 90,6%; trong thanh
niên học sinh chiếm 67%.
Đội ngũ cán bộ đoàn được quan tâm bồi
dưỡng và đào tạo. Trường huấn luyện cán bộ đoàn của tỉnh được thành lập. Chỉ một
thời gian ngắn đã huấn luyện cho trên 5000 cán bộ đoàn cơ sở. 80% cán bộ đoàn
chuyên trách được cử đi học ở trường đoàn trung ương.
Cán bộ nữ, cán bộ người dân tộc được tăng
cường. Cán bộ nữ chiếm 33% trong đó có 595 Bí thư hoặc Phó Bí thư các cấp là người
dân tộc chiếm 71%.
Cuộc vận đông xây dựng chi đoàn, phân đoàn
4 tốp được triển khai từ năm 1965 tiếp tục phát huy tác dụng. Các cơ sở đoàn chú
ý xây dựng tổ chức đoàn gắn với tổ chức sản xuất. 49% số hợp tác xã đã tổ chức
chi đoàn thanh niên, tạo điều kiện đưa hoạt động của đoàn gắn với sản xuất và đời
sống… Chất lượng cơ sở đoàn được nâng lên rõ rệt. Đoàn cơ sở đạt 4 tốt chiếm
28,3% chỉ có 11% yếu kém. Chi đoàn đạt 4 tốt chiếm 30,5%, số yếu kém chiếm
11,6%. Số cơ sở đạt 4 tốt trong các cơ quan, xí nghiệp cao hơn nông thôn: các cơ
quan tỉnh đạt 78%, nông trường Mộc Châu đạt 91%, Nông trường Tô Hiệu đạt 80,2%.
Các cơ sở của đoàn trường thường xuyên
quan tâm tham gia xây dựng đảng. Nhiều cơ sở đoàn đã tổ chức cho đoàn viên phê
bình góp ý kiến cho cán bộ, đảng viên góp ý về công tác của chi bộ, đảng uỷ, giới
thiệu cấp uỷ viên cho đảng trong các kỳ đại hội. Một số chủ trương của đảng được
đưa ra thảo luận trong đoàn viên trước khi đưa ra thảo luận trong nhân dân, làm
cho đoàn viên càng ý thức rõ hơn trách nhiệm là cánh tay và là đội hậu bị của đảng.
Các cơ sở đoàn cũng quan tâm giới thiệu những đoàn viên ưu tú để đảng xem xét kết
nạp. Trong 6 năm, tính đến năm 1968 đã có gần 6000 đoàn viên ưu tú được kết nạp
vào đảng, chiếm 70% số đảng viên mới được kết nạp.
Tuổi trẻ "Ba sẵn sàng" Sơn
La đã cùng quân và dân trong tỉnh vượt qua chặng đường đầy thử thách, đánh thắng
cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ nhất của Mỹ (1965 - 1968). Trong hoàn cảnh vừa
sản xuất vừa chiến đấu và phục vụ chiến đấu, đoàn viên và thanh niên Sơn La đã
cùng với tổ chức của mình, đoàn kết một lòng xung quang đảng vinh quang và Bác
Hồ vĩ đại, không ngừng tự hoàn thiện, cả về tổ chức cũng như năng lực hành động,
nâng mình lên ngang tầm nhiệm vụ, xứng đáng là cánh tay đắc lực và là đội hậu bị
đáng tin cậy của Đảng. Trong chiến đấu cũng như trong xây dựng, đoàn viên và
thanh niên trong tỉnh luôn là những người đi đầu vượt qua mội khó khăn thử thách,
dũng cảm và sáng tạo, hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao, góp phần đưa
sự nghiệp cách mạng của nhân dân các dân tộc Sơn La bước vào một thời kỳ mới,
phát triển toàn diện.
IV.
ĐẠI HỘI ĐOÀN TOÀN TỈNH LẦN THỨ HAI. ĐOÀN VÀ ĐỘI ĐƯỢC MANG TÊN BÁC HỒ VĨ ĐẠI.
Cùng với thắng lợi vang dội của cuộc
tiến công và nổi dậy đồng loạt của quan và dân miền Nam mùa xuân Mậu Thân 1968,
cuộc chiến đấu chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mĩ giàng thắng lợi to lớn,
buộc tổng thống Giônxơn, ngày 01.11.1968, phải tuyên bố ngừng ném bom và chấm dứt
mọi hành động chiến tranh khác chống nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, rút dần quân
Mỹ về nước, thực hiện Việt Nam hoá chiến tranh.
Thực hiện lời kêu gọi ngày 3-11-1968 của Chủ tịch Hồ Chí Minh và
nghị quyết của bộ Chính trị, tháng 3-1969, Đảng bộ tỉnh Sơn La đã cụ thể hoá chủ
trương "tranh thủ thời gian khôi phục và phát triển kinh tế làm cho miền Bắc
lớn mạnh nhanh chóng, đáp ứng nhu cầu to lớn của tiền tuyến miền nam" thành
những nhiệm vụ phù hợp với điều kiện thực tế của tỉnh để lãnh đạo quân và dân
trong tỉnh phát huy khí thế chiến thắng và tinh thần cách mạng tiến công, tiến
lên dành những thắng lợi mới. Bước vào thời kỳ khôi phục và phát triển kinh tế,
có muôn vàn khó khăn nẩy sinh ở một tỉnh miền núi cao còn có nhiều lệ thuộc vào
điều kiện tự nhiên, tuổi trẻ, "ba sẵn sàng" Sơn La, với truyền thống
yêu nước bất khuất sẵn có và được khí thế
chiến thắng cổ vũ thể hiện rõ phẩm chất của người thanh niên dân tộc, bền
bỉ và nhẫn nại, đoàn kết tượng trợ nhau, vượt qua mọi gian nan. Năm 1969, vừa bước
ra khỏi chiến tranh phá hoại, trên nhiều cách đồng, hố bom, cỏ xanh chưa kịp phủ,
vụ chiêm xuân hạn hán gay gắt, vụ mùa mưa úng và sâu bệnh. Sản lượng lúc giảm
nghiêm trọng. Các tổ chức cơ sở của đoàn
đã bàn nhiều biện pháp động viên đoàn viên và thanh niên, tổ chức thành những đội
xung kích, khẩn trương chống úng, chống hạn, phòng trừ sâu bệnh hại lúa. Ở nhiều
cơ sở trong những ngày úng lụt thanh niên đã bám đồng ruộng ngày đêm, khai thông
dòng chảy cứu lúa. Thanh niên ở các nông trường tổ chức khai thác mọi khả năng,
bảo vệ đồng cỏ… Cả một cuộc chiến đấu quyết liệt với thiên nhiên khắc nghiệt của
hàng chục vạn nông dân các dân tộc, trong đó có vai trò tích cực của thanh niên.
Ở mọi nơi mọi lúc bao giờ thanh nên cũng là những người đi đầu khắc phục khó khăn.
thanh niên hợp tác xã Hua Nà (Tông Lệnh, Thuận Châu), khi gặp hạn hán, sâu bệnh
phá hoại, mất mùa, đã đi đầu vỡ đất trồng hoa màu, tận dụng mọi nguồn nước, chăm
bón cây trồng, lôi cuốn nhiều nông dân ra đồng. Nhiều người gặt lúa mất mùa,
thiếu ăn, chán nản, muốn xin ra khỏi hợp tác xã. Hợp tác xã có nguy cơ tan rã.
Việc làm của thanh niên đã động viên bà con yên tâm sản xuất, hợp tác xã được củng
cố vững mạnh. Thanh niên bản Cọ quê hương của liệt sỹ Lò Văn Giá, đã đi đầu xây
dựng công trình thuỷ lợi kết hợp thuỷ điện, đảm bảo có nước tưới cho đồng ruộng
khi trời làm hạn hán, lại có điện thắp sáng bản làng. Thanh niên xã Chiềng Ban
(Mai Sơn) đi đầu mở đường đưa máy kéo về vỡ hoang nương bằng, tạo cơ sở định
canh cho hợp tác xã.
Trong khó khăn, phẩm chất của người đoàn
viên, thanh niên các dân tộc càng bộc lộ. Đoàn viên Lò Thị On, dân tộc Khơ mú ở
xã Nong Lay, có 4 con, vẫn ngày đêm bám ruộng đồng sản xuất, phấn đấu đạt trên
200 ngày công/năm, đi đầu làm nương định canh có bờ, chống xói mòn. Nuôi được
con lợn cũng bán cho nhà nước theo giá chỉ đạo, không bán cho tư thương với giá
cao gấp nhiều lần. Đoàn viên Nguyễn Thị Chi, có 4 con nhỏ, chồng đi chiến đấu
xa, đã vừa chăm sóc mẹ già tận tình, vâ tham gia mọi công tác của Đoàn, chống hạn,
chống úng, phòng trừ sâu bệnh, không một buổi vắng mặt. Đoàn viên Lò Thị Giun,
hợp tác xã bản He, xã Mường Chiên, huyện Quỳnh Nhai, tiễn chồng và em gái đi
chiến đấu, ở nhà một mình vẫn nuôi con tốt, sản xuất giỏi, được công nhận là xã
viên tiên tiến, đoàn viên 4 tốt, phụ nữ 3 đảm đang, dân quân quyết thắng…
Đoàn viên và thanh niên trong tỉnh còn
đi đầu trong cuộc vận động định canh, định cư và cuộc vận động đưa điều lệ hợp
tác xã sản xuất nông nghiệp bậc cao vào các hợp tác xã.
Trong sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công
nghiệp thanh niên luôn tìm tòi áp dụng các sáng kiến, cải tiến kỹ thuật, làm tăng
năng xuất lao động, góp phần làm tăng giá trị sản lượng công nghiệp năm 1969 hơn
năm 1968, 18,7% trong đó giá trị sản phẩm công nghiệp phục vụ nông - lâm nghiệp
tăng 24,2%, phục vụ tiêu dùng và đời sống tăng 23,3%.
Quá trình khôi phục và phát triển kinh
tế tỉnh đặc biệt coi trọng xây dựng cơ sở hạ tầng. Riêng giao thông vận tải, tỉnh
đã giành tới 30% vốn đầu tư ngân sách để tu bổ lại các đường ngầm vượt suối, khôi
phục các bến phà và 55 cầu, cống, cải tạo và mở rộng gần 100 km mặt đường, làm
mới 50 km đường liên huyện, liên xã… Ý thức rõ trách nhiệm của mình, tuổi trẻ
"ba sẵn sàng" Sơn La đã góp công sức đáng kể, đảm bảo những phần việc
khó khăn, mới mẻ. Nhiều cơ sở Đoàn đã tổ chức những đội thanh niên tình nguyện
lên công trường, đóng góp hàng vạn ngày công, phá đá mở đường. Đa số thanh niên
chưa quen việc làm đường, chưa biết phép vỉa, rải đá dăm, gọt mui luyện… Nhưng được
Đoàn động viên và liên tục tổ chức các đợt thi đua, tổ chức làm rút kinh nghiệm,
anh chị em đã vừa làm, vừa học, tìm tòi, sáng tạo nhiều cách làm thích hợp, đưa
năng xuất không ngừng tăng lên. Nhiều đơn vị thi công ở những đoạn đường chật hẹp,
địa hình hiểm trở, đã tổ chức thi công hợp lý, kết hợp cải tiến công cụ sản xuất.
Vẫn đảm bảo tăng năng xuất lao động, góp phần hoàn thành nhanh chóng những nhiệm
vụ đặt ra cho các tuyến đường. Thanh niên còn là những người đi đầu khắc phục
nhanh chóng khối lượng đất đá bị mưa lũ lớn làm sụt lở trên các tuyến đường. Tính
ra có tới 28.000 m3. Mở ra mạng lưới giao thông thông suốt phục vụ sản
xuất và đời sống nhân dân các dân tộc trong tỉnh và tạo điều kiện thuận lợi để
mở rộng giao lưu với các tỉnh bạn.
Giữa lúc quân và dân hai miền Nam - Bắc nước ta đang giành những thắng lợi có
tính quyết định thì lại phải chịu một tổn thất to lớn: 9h47' ngày 02/9/1969, Bác
Hồ lãnh tụ kính yêu, người thầy, người Bác của nhân dân và thế hệ trẻ Việt Nam không
còn nữa. Bác đã ra đi, khi vừa 79 tuổi, để lại cho thanh niên, thiếu niên và
nhi đồng nước ta “Muôn vàn tình yêu thương”, và không quên căn dặn toàn Đảng “Đoàn
viên và thanh niên ta nói chung là tốt, mọi việc đều hăng hái xung phong, không
ngại khó khăn, có chí tiến thủ. Đảng cần phải chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng
cho họ, đào tạo họ thành những người thừa kế xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa Hồng
vừa Chuyên”.
Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau
là một việc rất quan trọng và rất cần thiết. (Di chúc) Thực hiện di chúc thiêng
liêng của Bác Hồ, theo nguyện vọng thiết tha của thế hệ trẻ nước ta và theo đề
nghị của Đoàn TNLĐ Việt Nam, BCH TW Đảng Lao động Việt Nam đã quyết định cho Đoàn
và Đội thiếu niên, Đội nhi đồng được mang tên Bác Hồ kính yêu.
Nghị quyết về việc cho phép Đoàn thanh
niên được mang tên “Đoàn TNLĐ Hồ Chí Minh”, Đội thiếu niên được mang tên “Đội
thiếu niên tiền phong Hồ Chí Minh” đội nhi đồng được mang tên “Đội nhi đồng Hồ
Chí Minh”, nêu rõ: “Việc Đoàn thanh niên, Đội thiếu niên và Đội nhi đồng được
mang tên Bác Hồ kính yêu là vinh dự và trách nhiệm rất lớn của Đoàn thanh niên
và thế hệ trẻ nước ta”.
Ban chấp hành Trung ương Đảng kêu gọi
tất cả “thanh niên gái và trai, thiếu niên và nhi đồng Việt Nam noi gương Bác Hồ,
suốt đời phấn đấu cho độc lập, tự do của Tổ quốc, cho chủ nghĩa xã hội và chủ
nghĩa cộng sản, ra sức học tập, đạo đức, tác phong của người”.
Tổ chức Đoàn trong cả nước và tổ chức
của các em thiếu niên, nhi đồng được mang tên Bác Hồ vĩ đại một lần nữa thể hiện
sự đánh giá cao của Đảng ta đối với thế hệ trẻ và Đoàn thanh niên.
Hội nghị lần thứ 13, BCH TW Đoàn (khóa
III), với niềm xúc động sâu sắc đã thiết tha kêu gọi toàn thể cán bộ, đoàn viên
và thanh niên “Hãy ra sức thi đua sẵn sàng chiến đấu, đẩy mạnh sản xuất, công tác
và học tập, làm theo 5 điều Bác dạy, rèn luyện lập trường tư tưởng, trau rồi đạo
đức, phẩm chất cách mạng, nâng cao trình độ về mọi mặt, phấn đấu trở thành lớp
người thừa kế xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa Hồng vừa Chuyên như Bác Hồ dạy”.
Hội nghị BCH TW Đoàn lần thứ 13 và quyết
định mở đợt sinh hoạt “Học tập và làm theo Di chúc của Hồ chủ tịch và 5 điều Bác
dạy thanh niên, thiếu niên và nhi đồng” nhằm “làm cho đoàn viên, thanh niên,
thiếu niên, nhi đồng thấm nhuần công lao, sự nghiệp, đạo đức của Bác. Từ đó nâng
cao lòng tự hào, tin tưởng, đoàn kết, quyết tâm phấn đấu, không sợ khó khăn
gian khổ, hoàn thành mọi nhiệm vụ công tác để ngày càng xứng đáng với Bác hơn nữa”.
Đợt sinh hoạt chính trị tập trung về Bác
Hồ đã được các cấp bộ Đoàn trong tỉnh tổ chức rộng khắp, kết hợp Đại hội đại biểu
các cấp chuẩn bị cho Đại hội đại biểu Đoàn toàn tỉnh lần thứ II.
Với niềm xúc động sâu sắc, Đại hội đại
biểu Đoàn toàn tỉnh lần thứ II họp từ ngày 01 đến ngày 07 tháng 3 năm 1970 đã
khẳng định công lao trời biển của Bác Hồ, đã dẫn dắt các thế hệ thanh niên Việt
Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Mỗi bước trưởng thành của tổ chức Đoàn,
cũng như của mỗi đoàn viên và thanh niên Việt Nam, luôn gắn liền với sự quan tâm
chăm sóc ân cần, sự giáo dục và rèn luyện của Đảng và Bác Hồ kính yêu. Vinh dự
và tự hào được mang tên Bác, thanh niên các dân tộc Sơn La càng thấy rõ trách
nhiệm phải nỗ lực xây dựng tổ chức Đoàn ngày càng vững mạnh, làm tròn sứ mệnh lịch
sử nhân dân giao phó, xứng đáng với lòng tin yêu của Bác, với muôn vàn tình thương
yêu Người để lại. Nguyện “ mãi mãi học tập, thực hiện một cách trung thành và
trọn vẹn lời di chúc và lời dạy của Bác Hồ. Tự hào, tin tưởng, đoàn kết, phấn đấu,
nêu cao tinh thần tự lực cánh sinh, đẩy mạnh cao trào “Ba sẵn sàng”, quyết tâm đánh
thắng giặc Mỹ xâm lược, quyết tâm đẩy mạnh phát triển kinh tế địa phương lớn mạnh,
xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, quyết tâm phấn đấu và rèn luyện để xứng đáng
là thế hệ thanh niên Hồ Chí Minh, lớp người kế tục trung thành và xuất sắc sự
nghiệp cách mạng của Đảng và Bác Hồ.
Đại hội đại biểu lần thứ II Đoàn TNLĐ
Hồ Chí Minh tỉnh Sơn La đã kiểm điểm những tiến bộ đã đạt được sau 6 năm phấn đấu
gian khổ, vượt qua nhiều thử thách, trong chiến đấu cũng như xây dựng, kể từ Đại
hội lần thứ nhất (2/1963) Đại hội nhận thấy: “Được rèn luyện trong thực tế đấu
tranh cách mạng, đoàn viên và thanh niên các dân tộc trong tỉnh đã trưởng thành
nhanh chóng về mặt chính trị, tư tưởng, văn hóa, khoa học kỹ thuật và sức khỏe.
Tài năng của tuổi trẻ đang được bồi dưỡng và phát triển. Công tác tổ chức giáo
dục thiếu niên, nhi đồng được tăng cường. Tổ chức Đoàn được củng cố và phát triển,
đang từng bước phát huy tác dụng hạt nhân chính trị trong phong thào thanh niên,
góp phần đắc lực tham gia xây dựng Đảng, củng cố chính quyền và tăng cường cơ sở
chính trị của Đảng ở miền núi… Được chiến đấu dưới ngọn cờ vinh quang của Đảng,
của Bác Hồ kính yêu Đoàn ta đã vượt qua nhiều khó khăn thử thách và giành được
những thắng lợi vẻ vang, trưởng thành nhanh chóng. Chưa bao giờ phong trào
thanh niên Sơn La lại phát triển mạnh mẽ và có những cống hiến to lớn như trong
những năm chống Mỹ cứu nước. Thắng lợi đó chẳng những có ý nghĩa hết sức to lớn
trong lịch sử đấu tranh cách mạng của Đoàn TNLĐ và phong trào thanh niên các dân
tộc Sơn La, mà còn có ý nghĩa lớn trong sinh hoạt chính trị và xã hội của tỉnh.
Đó là thắng lợi của đường lối thanh vận đúng đắn, đầy sáng tạo và sự lãnh đạo sáng
suốt của Đảng ta, mà trực tiếp là BCH khu ủy Tây Bắc, Tỉnh ủy Sơn La; là kết
tinh của truyền thống đoàn kết chiến đấu kiên cường, bất khuất của nhân dân các
dân tộc và ý chí của thanh niên ta quyết đi theo lý tưởng cách mạng của Đảng, lý
tưởng cộng sản chủ nghĩa…
Đại hội cũng chỉ ra những mặt yếu kém
của công tác Đoàn và phong trào thanh niên
Sơn La, mà nguyên nhân chủ yếu là do nhận thức của nhiều cấp bộ Đoàn về đường lối
thanh vận của Đảng chưa sâu sắc toàn diện, việc xem xét đánh giá năng lực cách
mạng của thanh niên các dân tộc, nhất là các dân tộc ít người chưa được sâu sắc,
chưa từ thực tế của địa phương mà nghiên cứu đề xuất những biện pháp cụ thể để
tăng cường công tác tổ chức, giáo dục thanh niên, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng
đối với công tác thanh vận cho phù hợp với tình hình và đáp ứng yêu cầu của cách
mạng… Năng lực tổ chức lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện ở nhiều cấp bộ Đoàn còn chưa
đáp ứng kịp thời sự phát triển của phong trào và yêu cầu của nhiệm vụ trong tình
hình mới.
Nói chuyện với Đại hội, đồng chí Hoàng
Nó, Bí thư tỉnh ủy đã đánh giá cao những đóng góp to lớn của thanh niên các dân
tộc trong tỉnh đã phát huy được tác dụng là đội quân xung kích cách mạng đi đầu
trong sản xuất, chiến đấu, phục vụ chiến đấu… Tiêu biểu là trên 2 vạn đoàn viên
thanh niên lao động con em các dân tộc đang chiến đấu, sản xuất, xây dựng và công
tác trên khắp các mặt trận, và nhấn mạnh: “Đoàn TNLĐ Hồ Chí Minh ngày nay là tổ
chức thanh niên cộng sản, là tổ chức gần Đảng nhất. Đoàn phải là người thường
xuyên tuyên truyền mọi chủ trương đường lối, chính sách của Đảng, gương mẫu thực
hiện và đấu tranh chống lại mọi sự vi phạm đường lối chính sách của Đảng, là người
tích cực nhất làm công tác củng cố xây dựng Đảng, về mọi mặt, đào tạo cán bộ
cho Đảng, bảo vệ Đảng. Đoàn thanh niên là thành phần trong hệ thống chuyên chính
vô sản, có nhiệm vụ bảo vệ, xây dựng và củng cố chính quyền, làm người đại diện
quyền làm chủ tập thể của thanh niên; phát huy vai trò làm chủ của thanh niên
trong sự nghiệp xây dựng, phát triển kinh tế, văn hóa xã hội…”.
Sau 7 ngày làm việc khẩn trương, đầy
tinh thần trách nhiệm, Đại hội đại biểu Đoàn toàn tỉnh lần thứ II đã thành công
tốt đẹp. Đại hội đã bầu BCH tỉnh đoàn khóa II, do đồng chí Cầm Kim Cương làm Bí
thư. Sau đó đồng chí Lường An thay đồng chí Cầm Kim Cương.
Những nhiệm vụ đại hội Đoàn toàn tỉnh
lần thứ II đề ra là một bước thể hiện lòng trung thành tuyệt đối của thanh niên
các dân tộc trong tỉnh, quyết mãi mãi đi theo con đường Đảng và Bác Hồ đã chọn,
không ngừng nâng cao cảnh giác cách mạng, sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu thắng
lợi, đẩy mạnh lao động sản xuất, xây dựng, ra sức học tập và rèn luyện: Xây dựng
tổ chức Đoàn ngày càng vững mạnh xứng đáng là đội quân xung kích cách mạng và là
đội hậu bị đáng tin cậy của Đảng; nỗ lực phấn đấu, biến những điều Bác Hồ dặn
trong di chúc thành hiện thực sinh động, xây dựng Sơn La ngày càng đàng hoàng hơn,
to đẹp hơn, góp phần cùng cả nước đánh thắng giặc Mỹ, giải phóng miền Nam, thống
nhất tổ quốc, đưa đất nước từng bước đi lên trên con đường ấm no, hạnh phúc.
Từ sau đại hội Đoàn toàn tỉnh lần thứ
hai. Các cấp bộ Đoàn trong toàn tỉnh chỉ đạo chặt chẽ đợt sinh hoạt chính trị về
Bác Hồ, kết hợp xây dựng chương trình hành động cách mạng của tập thể cũng như
của mỗi đoàn viên thanh niên, học tập và làm theo lời Bác Hồ dạy, tích cực hưởng
ứng cuộc vận động phát huy dân chủ, tăng cường chế độ làm chủ tập thể của quần
chúng xã viên ở nông thôn và cuộc vận động “Nâng cao chất lượng đảng viên và kết
nạp Đảng viên lớp Hồ Chí Minh”.
Nghị quyết của Ban Chấp hành tỉnh đoàn
về phương hướng nhiệm vụ của Đoàn và phong trào thanh niên Sơn La đã đề ra chương
trình hành động cụ thể nhằm động viên đoàn viên và thanh niên trong tỉnh đẩy mạnh
cao trào “Ba sẵn sàng”, thực hiện tốt nghĩa vụ chiến đấu, lao động sản xuất, học
tập và rèn luyện. Trong đó có những chỉ tiêu như xây dựng 120 khu “đồng 5 tấn
hoặc 6-7 tấn thắng Mỹ” ở các vùng lúa. Các
tổ chức Đoàn ở vùng cây công nghiệp, xây dựng các khu rừng thí nghiệm, xây dựng
các tổ KHKT trong các HTX có từ 31 hộ trở lên, trước hết là ở 120 HTX vùng trọng
điểm lúa, và 9 xã khu cao nguyên Nà Sản… Thực hiện nguyên tắc: Đảng lãnh đạo,
HTX đầu tư, thanh niên đi đầu thực hiện…
Trong các HTX Nông nghiệp, thanh niên
nông thôn thực sự đi đầu thực hiện phương hướng thâm canh tăng năng suất cây trồng,
kết hợp với khai hoang mở rộng diện tích ruộng và định canh, định cư, bảo vệ và
khai thác rừng, phát huy ba ưu thế của miền núi là cây công nghiệp, chăn nuôi và
nghề rừng. Ở hầu hết các HTX sản xuất Nông nghiệp, trước hết ở các vùng trọng điểm
lúa, những khu đồng, cánh đồng 5 tấn, 6-7 tấn thắng Mỹ đã được xây dựng và
thanh niên đã đi đầu thực hiện các biện pháp thâm canh tổng hợp, mạnh dạn đưa
giống mới, có năng suất cao vào đồng ruộng, tưới tiêu hợp lý, dùng thuốc trừ sâu,
dùng phân bón ruộng… Phong trào làm phân bón đã lôi cuốn nhiều đoàn viên thanh
niên nông thôn và cả các em thiếu niên, học sinh tham gia. Từ phong trào giành
danh hiệu Kiện tướng làm phân 1000Kg, những năm 1965 – 1966 đến những năm
1969-1970 và những năm về sau, thanh niên nông thôn đã đưa mức phấn đấu lên
2000 rồi 3000kg, năm 1970 riêng đoàn xã Chiềng Cơi (thị xã) có 35 thanh niên đạt
danh hiệu dũng sỹ 2000kg phân bón. Năm 1972, ở 6 xã của huyện Sông Mã và 11 xã
của huyện Phù Yên đã có hàng trăm thanh niên làm được từ 3000-6000kg phân bón,
góp phần đưa mức bón phân bình quân năm 1972 lên 4,3tấn/ha, nhiều HTX đã bón từ
6-10 tấn/ha. Nhờ đó năm 1972, có 7 xã và 54 HTX đạt mục tiêu 5tấn thóc/ha gieo
trồng. Tiêu biểu là các xã Thôm Mòn, Tông Lệnh, Chiềng Sinh (Thuận Châu) Chiềng
Cơi (thị xã) Chiềng Xôm, Chiềng Lao (Mường La), Tân Phong (Phù Yên), Mường Chiên
(Quỳnh Nhai) Cao Đa (Bắc Yên).
Thực hiện phương hướng khai thác thế mạnh
của miền núi, đẩy mạnh chăn nuôi, đưa chăn nuôi trở thành nghề chính, thanh niên
đã hăng hái trồng thêm nhiều rau màu, dự trữ rơm, tăng thêm nguồn thức ăn cho
gia súc, cải tạo đồng cỏ, sửa chữa chuồng trại, làm chuồng trại xa nhà, xa bản.
Ngăn chặn, dập tắt các dịch bênh, đẩy mạnh và phát triển chăn nuôi tập thể, đảm
bảo bình quân một hộ có hai trâu hoặc bò, hai lợn/ha gieo trồng… Góp phần cùng
toàn tỉnh hoàn thành nghĩa vụ thực phẩm năm 1972. Các huyện Mộc Châu, Yên Châu,
Mai Sơn đã hoàn thành vượt mức chỉ tiêu được giao.
Trong những năm 1969-1973, các cơ sở sản
xuất công nghiệp và tiểu, thủ công nghiệp vẫn trong tình trạng sơ tán, nhưng
thanh niên công nhân vẫn đẩy mạnh phong trào “Hai mũi tiến công thắng Mỹ”, tổ
chức luyện tay nghề thi chọn thợ giỏi; mở hội thi tài, cổ vũ phong trào phát
huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật, nhận các công trình, xe, máy thanh niên.
Trong các cơ sở sản xuất công nghiệp và tiểu, thủ công nghiệp, vai trò của phân
đoàn, chi đoàn được phát huy rõ nét trong việc tham gia xây dựng và thực hiện kế
hoạch sản xuất, phấn đấu thực hiện tốt các định mức lao động, củng cố và phát
triển các tổ kiểm tra thanh niên… Ở nhiều cơ sở thanh niên đã vượt qua khó khăn,
thiếu thốn, đảm bảo sản xuất ổn định trong mọi tình huống. Thanh niên công nhân
mỏ than Hang Mon trong điều kiện thiếu thốn lương thực, thực phẩm, có thời gian
2-3 tháng không có tiền lương, nhân lực không đủ… Vẫn kiên trì bám mỏ, sản xuất
đủ than phục vụ nhu cầu sản xuất và đời sống.
Thanh niên trong các ngành địa chất, xây
dựng cơ bản, các công trường, lâm trường lao động với tinh thần dũng cảm, sáng
tạo, thường xuyên nhận làm việc ở những nơi khó khăn gian khổ, không ngừng phấn
đấu nâng cao giờ công ngày công, tích cực phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật,
cải tiến tổ chức, nâng cao năng suất lao động, nâng cao chất lượng công trình,
rút ngắn thời gian thi công, nhanh chóng đưa công trình phục vụ sản xuất và đời
sống. Trong đó có việc xây dựng các công trình: xí nghiệp xi măng, khôi phục xí
nghiệp đường, hệ thống kho tàng của tỉnh và các huyện, xây dựng khu sơ tán, cũng
như khu tập kết của các cơ quan tỉnh… Tiêu biểu là đội công trình 2 của Ty lương
thực. Là một đơn vị gồm những anh chị em công tác hành chính sự nghiệp, kinh
doanh được chuyển sang trực tiếp sản xuất đã khắc phục nhiều khó khăn vươn lên
làm chủ kỹ thuật đảm bảo hoàn thành nhiệm vụ được giao với chất lượng tốt.
Trong quá trình xây dựng hệ thống kho lương thực, vừa lao động, vừa học tập nâng
cao trình độ kỹ thuật tay nghề. Anh chị em phải học từng thao tác làm mộc, nề,
uốn thép. Chỉ một thời gian đơn vị đã tự xây dựng được những trụ đứng độc lập
cao 5 – 6 mét, dựng các vì kèo có lòng rộng 12 mét, trong hoàn cảnh không có cẩu
vẫn đảm bảo chất lượng tốt.
Đội công trình hồ Tiền Phong, Bản Mon,
với trên 300 nam nữ thanh niên tranh thủ làm ngoài giờ, hoàn thành 100 công trình
lớn nhỏ đáp ứng yêu cầu thi công. Chuyển sang làm đường Quỳnh Thuận anh chị em đã
đào đắp trên 5.000 mét khối đất đá, hoàn thành kế hoạch 1973 với chất lượng tốt.
Có 25% đoàn viên và thanh niên trong đội đạt danh hiệu dũng sĩ.
Thanh niên trong các nông trường đã dẩy
mạnh phong trào “Luyện tay nghề, thi chọn thợ giỏi” giành danh hiệu “Dũng sĩ
lao động thắng Mỹ”. Qua các đợt thao diễn kỹ thuật nhiều kỷ lục liên tiếp bị phá.
Từ kỷ lục đầu tiên, 92 kg bông/ngày do Vũ Thị Lụa lập (chỉ tiêu là 20 kg) trong
mùa thao diễn đầu tiên, chỉ ít mùa thao diễn sau năng xuất đã tăng lên đến hàng
ngàn kg/ngày. Và có tới 150 đoàn viên thanh niên đạt kỷ lục hái bông từ 2.000
kg bông/ngày trở lên. Năng xuất hái chè cũng tăng không ngừng. Từ những kỷ lục
220 kg chè búp/ngày đã tăng lên 300-480 kg. Và đã có tới 559 đoàn viên, thanh
niên đạt danh hiệu kiện tướng. Có ngày chị em đạt tới 1076 kg chè búp như Lê Thị
Nhạn, Phạm Thị Thanh… Đoàn viên và thanh niên trong các nông trường chăn nuôi đã
không ngừng cải tiến phương pháp chăm sóc đàn bò giống. Tỉ lệ nuôi sống đạt từ
98-100%. Có hơn 30 đoàn viên, thanh niên đạt danh hiệu kiện tướng vắt sữa. Đào
Thị Mai vắt sữa đạt trên 42 tấn/năm (chỉ tiêu 30 tấn). Năng xuất cắt cỏ cũng đạt mức kỷ lục. Nguyễn Thị Kèo, Nguyễn
Thị Viên nông trường Sao Đỏ đạt năng suất 90 tấn cỏ/năm (chỉ tiêu giao 60 tấn).
Đoàn viên Lò Văn Pâng, học tập gương anh hùng Hồ Giáo, tuy mới vào làm công nhân
nông trường Chiềng Ve, đã đi sâu nghiên cứu tâm, sinh lý của từng con bò, dạy
chúng ăn, ngủ đúng chỗ, đúng giờ. Anh đánh số từng con bò và có tín hiệu riêng để
gọi chúng.
Đoàn thanh niên trong các nông trường
đã xây dựng trên 100 công trình thanh niên. Động viên đoàn viên thanh niên làm
thêm ngày công, giờ công đảm bảo kế hoạch sản xuất, đưa ngày công bình quân của
thanh niên hàng năm đạt từ 260-300 công.
Trong phong trào thanh niên ở các nông
trường có phần đóng góp tích cực của những đoàn viên và thanh niên đã tạm biệt
những mái trường thân yêu, điều kiện đời sống vật chất và tinh thần đầy đủ ở thủ
đô Hà Nội và các tỉnh đồng bằng lên tham gia phát triển kinh tế, văn hóa miền núi.
Anh chị em đã vượt qua nhiều khó khăn, sát cánh cùng thanh niên các dân tộc quyết
tâm xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của CNXH ở một miền núi. Nhiều đoàn viên và
thanh niên thông qua lao động, rèn luyện đã trưởng thành nhanh chóng, trở thành
những cán bộ của Đảng, của đoàn. Nhiều người được cử đi học các trường trung học,
đại học…
Thanh niên trí thức công tác trong các
ngành khoa học, kỹ thuật, quản lý, kinh tế - xã hội đã vượt qua nhiều khó khăn
thiếu thốn, gạt bỏ những suy tính cá nhân, sẵn sàng đi sâu vào quần chúng, vận động,
tổ chức nhân dân các dân tộc ứng dụng các tiến bộ khoa học, kỹ thuật vào sản xuất
và đời sống, làm cho bộ mặt kinh tế - xã hội của tỉnh miền núi Sơn La ngày càng
thay đổi theo hướng tiến bộ. Nhiều đoàn viên và thanh niên, trong điều kiện thiếu
thốn vẫn say sưa nghiên cứu, sản xuất các máy công cụ phục vụ chế biến nông - lâm
sản, sản xuất một số thiết bị thay thế
phù hợp với điều kiện của một tỉnh miền núi. Trong các ngành năng lượng, vật liệu
xây dựng, đoàn viên và thanh niên đi sâu nghiên cứu thành công dùng than địa phương
thay thế than Quảng Ninh trong nung vôi, gạch, chế biến thực phẩm; sản xuất thành
công xi măng địa phương, mở ra triển vọng cho ngành công nghiệp của tỉnh. Trong
lĩnh vực nông nghiệp, nhiều thanh niên trí thức đã không quản khó khăn, bám sát
đồng ruộng, nghiên cứu quá trình sinh trưởng của từng loại giống mới trên từng
vùng đất khác nhau, tìm ra các biện pháp kỹ thuật thích hợp để thâm canh tăng năng
xuất cây trồng. Các tổ kỹ thuật chỉ đạo các vùng trọng điểm lúa, trọng điểm cây
công nghiệp, đồi rừng, chăn nuôi… đã ngày đêm lăn lộn ở cơ sở, rút ra nhiều kết
luận có giá trị. Trong đó có tổ nghiên cứu thổ nhưỡng của Nguyễn Xuân Toan ở bản
Phát (Chiềng Mung, Mai Sơn) đã thành công trong việc tìm ra những biện pháp thích
hợp để thâm canh ở vùng đất bạc màu.
Với nhiều phương thức hoạt động thích
hợp, thanh niên trong các ngành công nghiệp, thủ công nghiệp, lưu thông phân phối,
các cơ quan hành chính, sự nghiệp, các biệnh viện… đã đi đầu trong cuộc cách mạng
khoa học - kỹ thuật, phát huy trên 3000 sáng kiến, làm lợi cho nhà nước hàng
triệu đồng; đảm nhận xây dựng trên 500 công trình thanh niên đem lại hiệu quả
kinh tế thiết thực. 6320 đoàn viên và thanh niên đã phấn đấu đạt danh hiệu
“Dũng sĩ lao động thắng Mỹ”, trong đó có 100 đoàn viên thanh niên được bầu là
chiến sĩ thi đua. Tập thể chi đoàn lâm nghiệp Tạ Bú (Mường La), xí nghiệp chế
biến thực phẩm, dược phẩm Sơn La, chi đoàn đội cơ khí, đội ô tô (nông trường Tô
Hiệu), Đoàn thanh niên ủy ban nông nghiệp, Đoàn thanh niên ngành y tế, chi đoàn
Chiến Thắng (nông trường Tô Hiệu)…là những điển hình tiên tiến, có nhiều phương
thức hoạt động phong phú, đem lại hiệu quả.
Trên lĩnh vực học tập, rèn
luyện và xây dựng cuộc sống, mặc dù vẫn trong tình trạng sẵn sàng chiến đấu,
nhiều cơ sở vẫn ở nơi sơ tán, cuộc sống còn nghiều tạm bợ, các cơ sở Đoàn vẫn
suy trì nền nếp học tập văn hóa, khoa học kỹ thuật trong đoàn viên, thanh niên
các dân tộc. Các trường bổ túc văn hóa được phát triển mạnh ở nhiều nơi, thu
hút đông đảo thanh niên các dân tộc đến trường vừa học chữ, vừa học kỹ thuật,
nâng cao trình độ nghề nghiệp. Được các cấp ủy Đảng chỉ đạo, các tổ chức Đoàn
đã phối hợp với ngành giáo dục để tổ chức học tập cho thanh niên. Trong đó các
tổ chức Đoàn và trách nhiệm động viên đoàn viên thanh niên đi học, ngành giáo
dục chịu trách nhiệm tổ chức trường lớp và cử giáo viên phụ trách.
Thanh niên trong các trường
học đã đi đầu trong phong trào “dạy tốt và học tốt”. Ngoài việc đi sâu nghiên
cứu tâm lý, trình độ học sinh con em các dân tộc để có phương pháp giảng dạy
thích hợp, trao đổi giáo án, xây dựng vườn thực hành, làm đồ dùng giảng
dạy...đoàn viên và thanh niên trong các trường còn đóng vai trò tích cực trong
việc xây dựng trường sở thật sự trở thành trung tâm văn hóa kỹ thuật của địa
phương. Nhiều chi đoàn trong các trường học ngoài việc đảm bảo dạy tốt, còn tổ
chức cho đoàn viên và thanh niên hướng dẫn nhân dân làm ruộng thí nghiệm, áp
dụng các biện pháp kỹ thuật thâm canh giành năng suất cao, như tập thể chi đoàn
giáo viên trường phổ thông cấp II Chiềng Xôm, cấp III Thuận Châu, trường thanh
niên dân tộc Sông Mã…nhất là trường cấp I bản Lầm, lá cờ đầu của ngành giáo dục
Sơn La, 5 năm liền đạt danh hiệu “tổ, đội lao động XHCN”.
Trong các trường học, không
những dạy chữ cho học sinh, tổ chức Đoàn còn phối hợp với nhà trường giáo dục
các em một cách toàn diện, cả về văn hóa, kỹ thuật, tư tưởng… chuẩn bị cho học
sinh bước vào đời vững vàng về mọi mặt. Nhiều thanh niên học sinh, noi gương Lê
Mã Lương “nước còn giặc còn đi đánh giặc, chiến trường giục dã bước hành quân”
đã tình nguyện rời ghế nhà trường lên đường đi giết giặc cứu nước. Hàng trăm
thanh niên học sinh ở các trường cấp II, cấp III Mai Sơn, Thị Xã, Sông Mã…đã
không chờ thi hết cấp, từ chối không đi học nước ngoài để được lên đường cầm
súng chiến đấu. Đó là trường hợp của Cầm Chí Kiên, Cầm Văn Chinh, Đỗ Văn Thắng
và nhiều thanh niên học sinh khác.
Không chỉ trong các trường phổ
thông, trong ngành giáo dục mầm non nhiều đoàn viên và thanh niên cũng nêu cao
vai trò gương mẫu, làm tròn trách nhiệm là người mẹ thứ hai của các cháu.
Nguyễn Thị thắng, từ quê hương Nghệ Tĩnh lên Sơn La công tác, được bầu làm phó
bí thư chi đoàn 9. Thắng đã cùng tập thể chi đoàn chăm sóc, nuôi dưỡng 50 cháu
con em cán bộ, công nhân trong đơn vị ngoan, khỏe. Liên tục 4 năm liền tập thể
của Thắng đạt danh hiệu tổ đội lao động XHCN. Và cả 4 năm Thắng đều được bầu là
chiến sĩ thi đua. Đoàn viên Nguyễn Thị Tỉnh cũng là một bảo mẫu tích cực. 5 năm
liền được bầu là chiến sĩ thi đua.
Đi đầu trong lao động sản
xuất, học tập, rèn luyện, thanh niên các dân tộc trong tỉnh vẫn không ngừng nêu
cao tinh thần cảnh giác cách mạng, sẵn sàng chiến đấu và chiến thắng. Trong
những năm 1969-1972 tuy kẻ địch không trực tiếp đánh phá Sơn La, nhưng chúng
vẫn không ngừng tăng cường do thám. Riêng năm 1969 chúng đã cho máy bay do thám
Sơn La 96 lần. Phần lớn chúng tiến hành vào ban đêm và các xã giáp biên. Trên
mặt trận an ninh, chúng dùng nhiều thủ đoạn mới, gây mất ổn định chính trị, an
toàn xã hội. Chúng xúc tiến thành lập “Mặt trận giải phóng Tây Bắc” lưu vong,
dùng đài phát thanh đặt ở nước ngoài phát bằng tiếng Thái và tiếng H’mông,
dùng kinh khí cầu rải truyền đơn và hàng tâm lý chiến tuyên truyền xuyên tạc,
làm giảm lòng tin của nhân dân các dân tộc nhất là sau khi Bác Hồ qua đời.
Theo dõi sát tình hình diễn
biến chung của cả nước, quán triệt tinh thần chỉ đạo của Bộ chính trị và của
BCH Trung ương Đảng, Đảng bộ Sơn La thường xuyên coi trọng việc lãnh đạo quân
và dân trong tỉnh nâng cao cảnh giác, sẵn sàng chiến đấu, đảm bảo đánh thắng
địch trong mọi tình huống. Bên cạnh việc chỉ đạo mở hội nghị mừng công từ cơ sở
đến huyện, thị xã, các ngành… cổ vũ, động viên mạnh mẽ ý chí quyết chiến, quyết
thắng của quân và dân trong tỉnh, Tỉnh ủy đã chỉ đạo chiển khai việc củng cố,
nâng cao chất lượng và sức chiến đấu của các lực lượng vũ trang, điều chỉnh và
bổ sung phương án chiến đấu, tăng cường công tác phòng không nhân dân, xây dựng
các xã vũng mạnh về chính trị và an ninh.
Từ giữa tháng 4-1972, nhằm cứu
vãn nguy cơ thất bại thảm hại trong cuộc chiến tranh tội ác chống nhân dân Việt
Nam, tổng thống Mỹ Ních Xơn đã “Mỹ Hóa” trở lại cuộc chiến tranh. Chúng huy
động ồ ạt không quân và hải quân tham chiến ở Miền Nam, đồng thời tiến hành
chiến tranh phá hoại trở lại đối với Miền Bắc Việt Nam với quy mô và tính chất
ác liệt chưa từng có. Chúng sử dụng cả máy bay chiến lược B52 đánh phá có tính
hủy diệt các khu phố nông dân, bao vây và phong tỏa vịnh Bắc Bộ.
Ngày 01-10-1972 vào lúc 10h30,
không quân Mỹ mở đầu cuộc đánh phá lần thứ hai vào Sơn La. Chúng cho nhiều tốp
máy bay phản lực ném bom, bắn phá một số điểm thuộc khu vực Nà Sản. Sau đó
chúng đánh phá một số nơi thuộc huyện Mộc Châu; nhờ công tác phòng chánh được
triển khai triệt để. Sẵn sàng và chủ động, quân và dân trong tỉnh đã đánh trả
địch quyết liệt. Đồng thời phối hợp với các đơn vị ra đa, tên lửa phòng không,
kiên cường chiến đấu làm rối loạn đội hình của các tốp máy bay Mỹ bay qua bầu
trời Sơn La đi đánh phá Hà Nội và các tỉnh đồng bằng Bắc Bộ, bắn bị thương
nhiều chiếc, bắt sống giặc lái Mỹ, khi chúng nhảy dù xuống trong địa bàn của
tỉnh.
Sẵn sàng chiến đấu bảo vệ quê
hương, tuổi trẻ “Ba sẵn sàng” Sơn La còn tích cực hưởng ứng chủ trương chi viện
sức người, sức của cho tiền tuyến. Năm 1972 Sơn La tuyển quân với số lượng lớn
gần gấp hai lần các năm trước. Đảng bộ Sơn La chủ trương thực hiện “5 cử, 1
nguyện” đưa công tác tuyển quân đi vào nề nếp và trở thành hành động tự nguyện
của thanh niên. Bên cạnh việc giáo dục ý thức sẵn sàng chiến đấu, sẵn sàng lên
đường theo tiếng gọi thiêng liêng của Tổ quốc, các cơ sở Đoàn của Sơn La lập sổ
đăng ký thanh niên đến tuổi làm nghĩa vụ quân sự, có kế hoạch theo dõi, giúp đỡ
anh em tự nguyện đăng ký nhập ngũ khi có lệnh. Nhiều cơ sở đoàn còn có những
hình thức động viên thích hợp như tặng quà, trồng cây lưu niệm, tổ chức viếng
nghĩa trang liệt sĩ trước ngày lên đường đi chiến đấu… kết hợp với tính đảm bảo
công bằng trong việc gọi thanh niên nhập ngũ và làm tốt công tác hậu phương
quân đội. Chỉ riêng tháng hành động kỷ niệm ngày thương binh liệt sĩ 27-7-1972
đoàn viên và thanh niên Sông Mã đã góp 6 ngàn công dựng nhà, làm nương giúp đỡ
các gia đình thương bình, liệt sĩ, gia đình thanh niên xung phong, bộ đội, góp
1 tấn lương thực vào đào 20 ao thả cá, công trình nhớ ơn liệt sĩ.
Nhờ gần 1500 đoàn viên, thanh
niên trong tỉnh đã hăng hái lên đường, chiến đấu trên khắp các chiến trường.
Nhiều người đã lập công xuất sắc. Tiêu biểu là tập thể đoàn viên, thanh niên
đại đội 403, 407 chiến đấu trên đất bạn Lào. Là Phùng Văn Áy, người dân tộc
Mường xã Mường Bang (Phù Yên), trải qua chiến đấu đã trưởng thành nhanh chóng ,
trở thành một tiểu đoàn trưởng dũng cảm, được tặng thưởng 3 huân chương chiến
công. Vi Văn Bun, người xã Tường Tiến, một mình một súng trung liên đã ngoan
cường giữ một quả đồi, đánh lui một đại đội địch. Đinh Công É với một quả mìn
đã diệt 11 địch. Đèo Tiến Thắng trong 4 phút bắn chết 6 tên địch…
Phong trào chi viện sức người
sức của cho tiền tuyến lớn đánh thắng không chỉ cổ vũ thanh niên trong quân đội
sẵn sàng ra tiền tuyến, thanh niên trong lực lượng công an nhân dân cũng được
bổ sung ngày càng nhiều cho lực lượng an ninh Miền Nam. Chỉ tính từ năm 1968-1972 đã
có 65 cán bộ, chiến sĩ xung phong chi viện cho tiền tuyến. Có đồng chí đã chiến
đấu dũng cảm và hi sinh anh dũng.
Phong trào “5 cử, 1 nguyện”
ngày càng phát triển sâu rộng trong thanh niên. Sau khi hiệp định Pari được ký
kết, cục diện chiến tranh trên chiến trường Đông Dương có những bước phát triển
mới. BCH Trung ương Đảng kêu gọi nhân dân cả nước “Tăng cường đoàn kết, đề cao
cảnh giác, củng cố những thắng lợi đã giành được, hoàn thành độc lập, dân chủ ở
Miền Nam, tiến tới hòa bình thống nhất nước nhà”. Đảng bộ Sơn La một mặt chủ
trương khẩn trương chuyển từ thời chiến trở lại hoạt động thời bình, kết hợp
tăng nhanh mức sản xuất xã hội và chuyển rõ hơn cơ cấu sản xuất nông-lâm nghiệp
theo vùng với mục tiêu tự giải quyết phần lớn nhu cầu lương thực, thực phẩm,
tạo ngày càng nhiều nông-lâm sản, nguyên liệu cho công nghiệp chế biến và nâng
cao khối lượng hàng xuất khẩu…Đồng thời coi trọng nhiệm vụ động viên sức người,
sức của cho mục tiêu của quân và dân cả nước là giải phóng hoàn toàn Miền Nam,
với khẩu hiệu “cả Sơn La là công trường hùng vĩ, mỗi người dân là một dũng sĩ
xây dựng CNXH” và hướng về đồng bào Miền Nam ruột thịt, “tất cả để giải phóng
hoàn toàn Miền Nam”.
Thực hiện chủ trương của Tỉnh
ủy, tuổi trẻ các dân tộc Sơn La trong khi khẩn trương chuyển các cơ sở sản xuất
từ tình trạng sơ tán thời chiến sang hoạt động thời bình, ổn định và phát triển
sản xuất, đã không ngừng nâng cao cảnh giác, sẵn sàng chiến đấu và giữ vững an
ninh địa phương, đồng thời sẵn sàng lên đường làm nghĩa vụ quân sự. Hàng vạn lá
đơn tình nguyện nhập ngũ đã được gửi đến các ban tuyển quân và các tổ chức
Đoàn. Có nhiều lá đơn được viết bằng máu, thể hiện quyết tâm “được cầm súng
đánh Mỹ lúc này là một vinh dự. Đó là một dịp để tuổi trẻ có thể cống hiến”.
Các năm 1973-1974 thực hiện nhiệm vụ “tất cả cho tiền tuyến, tất cả để giải
phóng hoàn toàn Miền Nam”,
Công tác tuyển quân trở thành nhiệm vụ trung tâm đột xuất. Đầu năm 1974, Đảng
bộ Sơn La mở đợt sinh hoạt chính trị nhằm quán triệt Nghị quyết 21 của BCH
Trung ương Đảng, bước đầu vận dụng quan điểm kinh tế kết hợp chặt chẽ với quốc
phòng, coi trọng công tác xây dựng lực lượng vũ trang tại chỗ, đồng thời động
viên thanh niên hăng hái lên đường nhập ngũ, hoàn thành vượt mức nhiệm vụ tuyển
quân. Chỉ tiêu được giao tăng gấp rưỡi so với các năm trước nhưng vẫn hoàn
thành nhiệm vụ giao quân và đạt chất lượng cao. Nhiều bà mẹ đã tình nguyện tiễn
đưa con thứ ba, thứ tư của mình ra trận. Nhiều nữ thanh niên đã đảm đang việc
nhà, động viên chồng yên tâm lên đường đi chiến đấu.
Tính đến năm 1974, toàn tỉnh
đã động viên gần 11.000 thanh niên các dân tộc gia nhập quân đội, chiếm 38%
tổng số nam thanh niên và 2,74% dân số. Toàn tỉnh có 21 gia đình có 4 con tòng
quân, 4 gia đình được nhà nước tặng thưởng huân chương kháng chiến. Trải qua
chiến đấu và rèn luyện, đại bộ phận thanh niên con em các dân tộc trong tỉnh
đều hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, dù ở bất cứ chiến trường nào. Nhiều người đã
lập công được tặng thưởng huân chương, trở thành anh hùng, dũng sĩ, chiến sĩ
quyết thắng, chiến sĩ thi đua. Chiến công của anh hùng liệt sĩ Cà Văn Khum, của
anh hùng quân đội Đèo Văn Khổ, Đinh Đức Dừa, Vì Văn Pụn…của anh hùng lực lượng
công an vũ trang Nguyễn Đình Thử mãi mãi là niềm tự hào của tuổi trẻ “ba sẵn
sàng” Sơn La trong những năm kháng chiến chống Mỹ cứu nước.
Trong những năm tháng quyết
liệt của cuộc kháng chiến chống Mỹ bên cạnh lớp lớp thanh niên hăng hái lên
đường cầm súng trực tiếp chiến đấu trên các chiến trường, tuổi trẻ “ba sẵn
sàng” Sơn La còn đóng góp 1,9 triệu ngày công phục vụ chiến đấu trên khắp các
chiến trường, vận chuyển hàng ngàn tấn vũ khí, đạn dược, lương thực, thực phẩm,
trong những điều kiện vô cùng khó khăn, gian khổ và đã hoàn thành xuất sắc
nhiệm vụ. Trong đó có 3 đơn vị dân công hỏa tuyến của Sông Mã, Mộc Châu, Phù
Yên và 4 đại đội dân quân tình nguyện phục vụ chiến trường năm 1972. Với
309.179 ngày công, anh chị em dã vượt qua nhiều thử thách, gian khổ kịp thời
đưa hàng tới đích an toàn, đạt 154% kế hoạch phục vụ.
Tổng kết phong trào “ba sẵn
sàng” và 10 năm kháng chiến chống Mỹ thanh niên các dân tộc Sơn La tự hào đã
góp phần xứng đáng vào chiến công chung của quân và dân trong tỉnh cũng như của
quân và dân cả nước, hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc dân tộc dân chủ nhân
dân, kết thúc cuộc chiến tranh nhân dân vĩ đại nhất trong lịch sử dân tộc bằng
đại thắng mùa xuân 1975, giải phóng Miền Nam, thống nhất Tổ quốc, đưa cả nước
cùng đi lên CNXH, giữ vững an ninh chính trị, an toàn xã hội ở một tỉnh miền
núi, địa bàn chiến lược phía Tây Bắc của Tổ quốc, từng bước xây dựng và phát
triển kinh tế - xã hội của tỉnh theo hướng khá về kinh tế, mạnh về chính trị,
thực hiện xã hội công bằng, văn minh, tiến kịp miền xuôi về mọi mặt.
Trải qua cống hiến và rèn
luyện tổ chức Đoàn trong tỉnh không ngừng được củng cố và phát triển. Trong 10
năm, kể từ năm 1965, trong toàn tỉnh đã bồi dưỡng được gần 2 vạn thanh niên và
đã kết nạp được 14.197 đoàn viên, đưa tỉ lệ đoàn viên từ 29% năm 1963 lên 42%
so với tổng số thanh niên từ 15-30 tuổi,
chất lượng đoàn viên không ngừng được nâng cao. Đội ngũ cán bộ của Đoàn cũng
phát triển nhanh chóng, cán bộ nữ chiếm 33%, trong đó có trên 600 đồng chí giữ
cương vị bí thư hoặc phó bí thư, cán bộ là người dân tộc chiếm 71%. Tổ chức cơ
sở của Đoàn cũng phát triển nhanh chóng, từ 760 chi đoàn năm 1963 tăng lên 1200
chi đoàn. Số chi đoàn và phân đoàn gắn với cơ cấu kinh tế cũng tăng lên đáng
kể. Năm 1963 số chi đoàn trong các hợp tác xã và phân đoàn trong các đội sản
xuất chiếm 10%, sau 10 năm tỉ lệ đó là 74%. Các tổ chức cơ sở của Đoàn đã giới
thiệu cho Đảng trên 1 vạn đoàn viên ưu tú và qua bồi dưỡng Đảng đã kết nạp được
thêm 6000 đoàn viên vào Đảng, chiếm tỉ lệ 70% số đảng viên mới được kết nạp.
Riêng lớp đảng viên Hồ Chí Minh tỉ lệ đoàn viên được kết nạp chiếm 80%. Hàng
nghìn cán bộ đoàn đã được chuyển sang công tác ở các cơ quan Đảng, chính quyền.
Trong Hội đồng nhân dân các cấp (tỉnh, huyện, xã) đoàn viên thanh niên chiếm từ
30-40%.
Ghi nhận những công lao của
tuổi trẻ các dân tộc Sơn La trong sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước của toàn dân,
BCH Trung ương Đảng đã tặng cờ thưởng luân lưu “thanh niên anh dũng tiến lên,
quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ”. Nhà nước tặng tổ chức Đoàn và đoàn viên, thanh
niên trong tỉnh:
- 1 huân chương Độc Lập
- 2 huân chương Lao Động
- 35 bằng khen của Thủ tướng
chính phủ
Ban Bí thư Trung ương Đoàn
tặng tổ chức Đoàn và đoàn viên, thanh niên Sơn La:
- 35 cờ danh dự mang chân dung
Nguyễn Văn Trỗi
- 700 đoàn viên và thanh niên
được tặng huy hiệu mang chân dung Nguyễn Văn Trỗi
Ban chấp hành Tỉnh ủy tặng tổ
chức Đoàn và phong trào thanh niên trong tỉnh 3 lá cờ truyền thống.
một chặng đường đầy thử thách
gian lao, tuổi trẻ các dân tộc Sơn La, được Đảng và Bác Hồ vĩ đại soi đường chỉ
lối, trực tiếp là Đảng bộ địa phương, không chỉ đứng vững, còn tự vượt lên
mình, để đi cùng dân tộc và thời đại, làm nên lịch sử vẻ vang, giải phóng dân
tộc, giải phóng giai cấp, đưa cả nước đi lên trên con đường tự do, ấm no, hạnh
phúc.
Trong quá trình lãnh đạo cách
mạng đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, Đảng ta và Bác Hồ vĩ đại đã đánh
giá đúng vai trò vị trí của thanh niên cũng như khả năng cách mạng to lớn của
thế hệ trẻ, đặc biệt ở những thời điểm có tính bước ngoặt của lịch sử, do đó đã
tổ chức, động viên hàng triệu thanh niên tiến lên hàng đầu, làm người lính xung
kích trong sự nghiệp của toàn dân. Và tuổi trẻ, ý thức rõ trách nhiệm của mình,
vững tin ở con đường Đảng và Bác Hồ đã chọn, không ngừng vươn lên, với khí thế
“ba sẵn sàng” của cả một thế hệ luôn tiến lên phía trước và giành chiến thắng
vẻ vang.
Phong trào “ba săn sàng” thật
sự là một trường học, có tác dụng to lớn trong việc tập hợp, tổ chức và động
viên thanh niên các dân tộc ở thời điểm có tính quyết định nhất của lịch sử dân
tộc, khơi dậy được những tiềm năng vốn có của tuổi trẻ, trong đó có những tiềm
năng quí giá như lòng tin và sự trung thực, tính kiên định con đường đã chọn và
lòng quả cảm trong hành động của thanh niên các dân tộc Sơn La…đưa thanh niên
đi vào hành động cách mạng, để họ có điều kiện cống hiến và trưởng thành.
Một thế hệ thanh niên các dân
tộc, trải qua thử thách trong chiến đấu và xây dựng, đã trưởng thành nhanh
chóng, trở thành những con người mới phát triển toàn diện, là thành quả đáng tự
hào của phong trào “ba sẵn sàng”. Và chính thế hệ ấy bước vào thời kỳ mới, thời
kỳ xây dựng lại đất nước ta “đàng hoàng hơn, to đẹp hơn” như Bác Hồ từng dạy, với
tất cả niềm tin vững chắc và những khả năng đang không ngừng được bồi đắp.