I
- CHI BỘ NHÀ TÙ SƠN LA VÀ SỰ RA ĐỜI TỔ CHỨC THANH NIÊN CỨU QUỐC ĐẦU TIÊN Ở SƠN
LA
Đảng Công sản Việt Nam ra đời (3-2-1930) trực tiếp
lãnh đạo nhân dân đứng lên đấu tranh chống lại chế độ tàn bạo của thực dân,
phong kiến, làm cách mạng giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp.
Nhận rõ vai trò và vị trí của thanh niên
trong cách mạng, Đảng ta ngay từ đầu đã chăm lo xây dựng và rèn luyện tổ chức
của những người cộng sản trẻ tuổi. Khi tở chức ra Việt Nam thanh niên cách mạng
đồng chí Hội, chuẩn bị cho việc thành lập Đảng của những người cộng sản Việt
Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nghĩ ngay đến tổ chức độc lập của thanh niên. Cùng
với việc đưa một số thiếu nhi sang Quảng Châu (Trung Quốc) để huấn luyện, ngay
trong nhóm bí mật do Người lập ra để làm nòng cốt trong Hội Viêt nam thanh niên
cách mạng đồng chí cũng có 2 đoàn viên thanh niên dự bị. Trong báo cáo gửi Đoàn
Chỉ tịch Quốc tế cộng sản đề ngày 19-2-1925 đồng chí Nguyễn Ái Quốc (tức Chỉ
tịch Hồ Chí Minh sau này) viết rõ : “Chúng tôi đã lập một nhóm bí mật gồm 2 hội
viên, trong đó có : . . . 5 người là đảng viên dự bị của Đảng cộng sản. Chúng
tôi còn có 2 đoàn viên dự bị của Đoàn thanh niên Cộng sản Lênin”
Sau khi ra đời, trong hội nghị lần thứ nhất
BCH Trung ương, họp tháng 10-1930, Đảng ta đã ra “án nghị quyết về cộng sản
thanh niên vận động”, chỉ rõ “Cộng sản thanh niên Đoàn là đại biểu độc nhất của
đám thanh niên công nông, của tất cả đám thanh niên thành phố và nhà quê. . .
Cộng sản thanh niên Đoàn là cái khí cụ rất tốt để ảnh hưởng mạnh đến quảng đại
quần chúng thanh niên công nông và lãnh đạo cho họ trong cuộc giai cấp đấu tranh”
Trong cao trào cách mạng của nhân dân thời
kỳ 1930-1931, đặc biệt là trong phong trào Xô viết Nghệ Tĩnh, các đoàn viên
thanh niên cộng sản và thanh niên được tập hợp trong hàng trăm chi bộ Đoàn, trong các đội
tự vệ đỏ luôn là những mũi nhọn xung kích đi đầu trong các cuộc đấu tranh.
Nhiều đoàn viên, thanh niên đã chiến đấu ngoan cường và hy sinh anh dũng. Tiêu
biểu là tấm gương hy sinh bất khuất của người đoàn viên thanh niên cộng sản đầu
tiên được Bác Hồ trực tiếp đào tạo và rèn luyện, Lý Tự Trọng.
Mùa xuân năm 1931, Hội nghĩ BCH
Trung ương Đảng lần thứ hai họp tại Sài Gòn (nay là thành phố Hồ Chí Minh) từ
ngày 20 đến ngày 26 tháng 3 dưới sự chủ trì của đồng chí Trần Phú – Tổng bí thư
của Đảng, thực hiện án nghị quyết vè thanh niên vận động của Hội nghị Trung
ương lần thứ nhất, tháng 10-1930, đã đề ra nhiệm vụ “cần kíp tổ chức ra thanh
niên cộng sản Đoàn”. Sau này, được Bộ chính trị BCH Trung ương Đảng và Bác Hồ
cho phép, theo đề nghị của thường vụ BCH Trung ương Đoàn TNLĐ Việt Nam, Đại hội
Đoàn toàn quốc lần thứ III, họp từ ngày 22 đến ngày 25-3-1961 đã quyết định lấy
ngày 26-3-1931 (ngày cuối của Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ hai năm 1931)
làm ngày kỷ niệm thành lập tổ chức Đoàn thanh niên.
Sự ra đời của Đoàn TNCS Đông
Dương (tên gọi của Đoàn lúc mới thành lập) đáp ứng kịp thời đòi hỏi cấp bách
của phong trà thanh niên nước ta, góp phần đpàn kết, tập hợp tuổi trẻ của cả
nước tham gia vào cuộc đấu tranh giải phóng, dưới dự lãnh đạo của Đảng và Bác
Hồ kính yêu.
Hòng dập tắt phong trào cách
mạng của nhân dân ta và tiêu diệt Đảng ta, đế quốc Pháp, một mặt tăng cường lực
lượng quân sự, cảnh sát, mật thám, đàn áp dã man những cuộc nổi dậy của quân
chúng. Mặt khác chúng gấp rút xây thêm hoặc mở rộng các nhà tù, trại giam để
giam cầm những chiến sỹ cộng sản và những thanh niên yêu nước bị chúng bắt để
uy hiếp tinh thần cách mạng của nhân dân. Trong đó có việc mở rộng và nâng cấp
nhà tù Sơn La thành nơi giam cầm tù chính trị.
Nhà tù Sơn La được xây dựng trên
đồi Khau Cả, nằm ở Thị xã Sơn La, là một vùng núi non hiểm trở, khí hậu khắc
nghiệt, giao thông đi lại khó khăn, là nơi “đêm hiu hắt lạnh ngày mù mịt
sương”, nơi “nước độc
rừng thiêng”. Thực
dân pháp đã đưa hàng loạt tù chính trị lên giam cầm ở nhà tù Sơn La. Từ năm
1930 đến năm 1942, chúng đã đưa lên nhà tù Sơn La 7 đoàn tù chính trị với tổng
số 466 người, phần lớn là những đảng viên, cán bộ và quần chúng trung kiên của
Đảng. . . có mức án cao, với mục đích : tách rời mối liên hệ giữa các chiến sỹ
cộng sản với phong trào cách mạng của quần chúng, làm giảm sút ý chí chiến đấu
và nhiệt tình cách mạng, giết dần giết mòn các chiến sỹ cộng sản và những người
yêu nước bằng khí hậu khắc nghiệt, muỗi rừng, bệnh tật và lao động khổ sai.
Trong báo cáo năm 1931 gửi thông sư Bắc Kỳ, tên công sứ Sơn La viết : “Chỉ cần
một thời gian không lâu, sốt rét, bệnh tật và công việc khổ sai sẽ tiêu hao
chúng một cách êm thấm”. Thâm hiểm hơn, chúng dùng thủ đoạn chia rẽ dân tộc để
ngăn cản việc tuyên truyền cách mạng của tù chính trị. Tên công sứ Sơn La
thường dọa tù nhân : “Đừng tìm cách trốn. Thổ dân sẽ đem đầu của các anh về đổi
lấy muối”. Chúng treo giải thưởng 20 đồng bạc trắng (tương đương với 5 tạ muối
luc bấy giờ) cho ai bắt được tù nhân vượt ngục.
Sự có mặt của các đoàn tù chính
trị đã làm cho nhà tù Sơn La trở thành một trung tâm giam cầm, đày ải những
chiến sỹ cộng sản và những người yêu nước ở khu vực phía Bắc Việt Nam. Nhiều
người trong số đó từng bị đế quốc Pháp bắt giam nhiều lần ở các nhà tù Hỏa Lò,
Côn Đảo.Có đồng chí sau này trở thành những cán bộ lãnh đạo xuất sắc của Đảng
và Nhà nước Như các đông chí Lê Duẩn, Trường Chinh, Nguyễn Lương Bằng. . . Trải
qua đấu tranh sinh tử với ke thù, các dồng chí đều dày dạn kinh nghiệm. Trong
điều kiện chế độ giam cầm hà khắc của nhà tù Sơn La, các đồng chí đều nhận thức
rõ rằng : cần có một tổ chức thống nhất để chỉ đạo cuộc đấu tranh, nên dù khó
khăn mấy cũng phải xây dựng được chi bộ Đảng và các tổ chức trong nhà tù để
đoàn kết anh em trong tù.
Vào cuối tháng 12-1939 các đảng
viên cộng sản trong nhà tù bí mật triệu tập hội nghị để thảo luận việc thành
lập chi bộ lâm thời của nhà tù Sơn La, gồm 10 đồng chí và cử đồng chí Nguyễn
Lương Bằng làm bí thư.
Đây là chi bộ Đảng đầu tiên được
tổ chức ở vùng rừng núi phía Tây Bắc của Tổ quốc. Tuy là chi bộ lâm thời hoạt
động bí mật trong nhà tù đế quốc nhưng có một ý nghĩa to lớn đối với phong trào
cách mạng của nhân dân các dân tộc trong Tỉnh Sơn La cũng như trong khu Tây
Bắc. Từ đây đồng bào và thanh niên các dân tộc tiếp thu được ánh sáng của Đảng
và cách mạng đẻ tiến tới giải phóng quê nhà.
Tháng 2-1940, hội nghị chi bộ
lâm thời quyết định chuyển thành chi bộ chính thức và nhất trí cử đồng chí Trần
Huy Liệu làm bí thư.
Tháng 5-1940, chi bộ lập
hội nghị thảo luận phương hướng, nhiệm
vụ hoạt động và bầu Ban chi ủy mới do đồng chí Tô Hiệu làm bí thư. Hội nghị đã
vạch ra 5 công tác lớn :
1 - Chi bộ lãnh đạo toàn diện
hoạt động của nhà tù.
2 - Tăng cường công tác tuyên
truyền giáo dục và rèn luyện đạo đức cách mạng cho đoàn viên và quần chúng.
3 - Đào tạo bồi dưỡng cán bộ,
huấn luyện và bồi dưỡng lý luận Mác-Lê nin và phương pháp đấu tranh cách mạng
trong nhà tù.
4 - Xây dựng và phát triển các
tổ chức quần chúng cách mạng ở trong nhà tù.
5 - Tìm mọi cách bắt liên lạc
với xứ ủy và TW Đảng để xin ý kiến chỉ đạo của cấp trên đối với cán bộ nhà tù.
Việc bắt liên lạc với Trung
ương, với các cư sở Đảng và công tác tổ chức, gây dựng cơ sở cách mạng ở địa
phương Sơn La là một trong những nhiệm vụ quan trọng được chi bộ giao cho đồng
chí Tô Hiệu và các đồng chí bí thư chi bộ ccasc thời kỳ sau đó đảm nhiệm.
Chi bộ hoạt động tuyệt đối bí mật, vừa triển
khai công tác lãnh đạo, vừa bảo toàn lực lượng, tránh sự khủng bố của địch. Các
đảng viên hoạt động ở các địa phương bị đày lên nhà tù Sơn La nhiều nhưng đều
phải trải qua thời kỳ thử thách, kiểm tra rồi mới được kết nạp vào chi bộ và
giao nhiệm vụ cụ thể. Vì vậy, số đảng viên sinh hoạt trong chi bộ nhà tù Sơn La
cao nhất cũng chỉ trên 50 đồng chí.
Mặc dù kẻ địch kiểm soát hết sức
gắt gao nhưng việc liên lạc giữa các đảng viên trong các trại giam vẫn được đảm
bảo. Các đảng viên đều quán triệt những nghị quyết của chi bộ, chủ trương của
chi ủy. Nhiều đảng viên trẻ, có bản lĩnh, trung thành được chi boojq uan tâm
bồi dưỡng, giao nhiệm vụ, sẵn sàng thay thế các đồng chí chủ chốt, phòng khi
bất trắc.
Mùa thu năm 1941, chi bộ nhà tù
cho ra đời tờ báo “Suối Reo” để tuyên truyền cách mạng và hướng dẫn các cuộc
đấu tranh trong tù. Tờ báo được bí mật truyền bá rộng rãi trong thanh niên học
sinh, công chức, binh lính và quần chúng ở thị xã Sơn La, thức tỉnh lòng yêu
nước của mọi người và kêu gọi đồng bào các dân tộc đoàn kết, tranh đấu để cứu
nước, cứu nhà.
Do tình hình giao thông khó
khăn, từ giữa năm 1941 đầu năm 1942, việc bắt liên lạc giữa chi bộ với Trung
ương Đảng vẫn chưa kết quả. Cho tới đầu năm 1942, chi bộ mới tiếp nhận được một
số văn kiện của Đảng như Nghị quyết của Hội nghị Trung ương Đáng lần thứ 8
họp từ ngày 10 đến 19-5-1941 tại Pác Bó (Cao Bằng) và điều lệ Việt Minh.
Nhờ đó chi bộ nhà tù nắm bắt được chủ trương chuyển hướng chỉ đạo chiến lược
của Đảng trong giai đoạn trước mắt là taajo trug lực lượng vào việc đánh Pháp.
Đuổi Nhật, giành độc lập, tự do cho Tổ quốc.
Dựa vào đường lối của Trung ương
và tình hình thực tế, chi bộ nhà tù đề ra những chủ trương cụ thể như :
- Tăng cường tuyên truyền, vận
động, xây dựng cơ sở cách mạng bên ngoài nhà tù, chuẩn bị tiến tới vũ trang
khởi nghĩa ở Sơn La khi có điều kiện.
- Thành lập các tiểu ban binh
vận, dân vận . . .
- Cử những đảng viên có điều
kiện hoạt động bên ngoài nhà tù học tiếng Thái và chữ Thái tạo thuận lợi cho
việc tuyên truyền vận động đồng bào dân tộc.
Nghị quyết Trung ương Tám đã
truyền đến chi bộ nhà tù Sơn La sức mạnh mới. Đảng viên, quần chúng tin tưởng,
phấn khởi học tập tình hình, nhiệm vụ mới, chuẩn bị sẵn sàng đón thời cơ.
Thưc hiện chủ trương của chi bộ
nhà tù, công tác vận động nhân dân các dân tộc tham gia cách mạng được đặc biệt
chú trọng. Chi bộ xác định đối tượng chủ yếu là thanh niên học sinh, công chức
và nông dân và đã thành lập các tổ công tác : tổ vận động thanh niên học sinh,
tổ vận động công nhân viên chức, tổ vận động nhân dân phố Chiềng Lề, tổ vận
động nhân dân các bản . . .
Vào đầu những năm 40, tỉnh lị
Sơn La tập trung nhiều học sinh Chiềng Lề. Ngoài số thanh niên phố Chiềng Lề và
các bản, còn có thanh niên các châu mường về học. Ngoài ra còn có cả học sinh
Lào. Lợi dụng những lúc đi lao động khổ sai, đào hầm phòng thủ chống Nhật ở khu
trường tiểu học,các đảng viên trong chi bộ nhà tù đã bí mật tiếp xúc với các em
học sinh. Từ chỗ giảng giả những bài toán khó, dịch những câu tiếng Pháp, các
đồng chí đã tuyên truyền cho thanh niên học sinh về cách mạng tháng Mười, về
việc nhân dân và thanh niên ta phải sống trong cảnh “nước mất nhà tan”, “một cổ
hai tròng” bị đế quốc Pháp, Nhật áp bức, bóc lột, đời sống hết sức khổ cực,
khơi dậy lòng yêu nước và trách nhiệm của thanh niên đối với dân tộc, Tổ quốc.
Việc vận động, tổ chức các cơ sở
quần chúng cách mạng trong công nhân, viên chức được chi bộ nhà tù tiến hành
khẩn trương. Vì đường dây này là nguồn cung cấp thông tin, sách bào và tài liệu
cho chi bộ. Lợi dụng những lúc đi làm lò vôi, lò gạch, làm nề ở trại khố đỏ,
đào hầm ở các công sở, vào các bản xin gio, lấy tre . . . Các đảng viên tìm mọi
cách tiếp xúc với binh lính đi coi tù, với công chức, học sinh và dân bản để
tuyên truyền cách mangh, vạch trần bản chất của đế quốc, phong kiến.
Cũng thời gian này, chi ủy chi
bộ nhà tù đã bí mật bắt liên lạc với đồng chí Bế Nhật Huấn làm thư ký ở tòa sứ
Sơn La. Anh quê ở Hòa An, Cao Bằng, trong thời kỳ Mặt trận dân chủ, anh tham
gia tổ chức thanh niên học sinh phản đế và được kết nạp vào Đảng cộng dản Đông
Dương. Anh là đảng viên duy nhất hoạt động bên ngoài nhà tù Sơn La. Được chi bộ
giao nhiệm vụ, Bế Nhật Huấn đã tuyên truyền, giáo dục, giúp đỡ nhiều công chức,
nhà giáo, nhân viên y tế trở thành quần chúng cảm tình cách mạng.
Cùng với thanh niên học sinh,
công nhân, viên chức, đồng bào ở phố Chiềng Lề và ccasc bản ngoại vi thị xã
(bản Tông, bản Hụm, Là Mường, Có Thé, Phiêng Ngùa, Bó Cá, Cọ Hài, bản Giảng,
bản Hẹo.v.v..) cũng dần dần được giác ngộ. Về sau, nhiều người trở thành cán bộ
cốt cán và tham gia lãnh đạo phong trào cách mạng ở Sơn La như: Chu Văn Thịnh,
Cầm Văn Thinh, Nguyễn Phúc, Quảng Văn Đức, Lò Văn Giá, Tòng Văn Lanh, Nguyễn Tử
Du...
Anh em công nhân ở sở lục Lộ,
nhà máy điện, hãng ô tô Phê-ri-e đều có cơ sở của chi bộ nhà tù. Nhiều thanh
niên công nhân ở đây đã không sợ nguy hiểm, thường xuyên nhận thư từ, sách báo,
tài liệu từ miền xuôi lên qua địa chỉ của mình rồi bí mật chuyển cho chi bộ nhà
tù.
Âm mưu biến Sơn La thành căn cứ
chống Nhật, thực dân Pháp, ráo riết bắt thanh niên đi lính, đi phụ xây dựng sân
bay Nà Sản, xây dựng kho thóc ở thị xã Phìa, tạo ra các châu mường ra sức thu
thóc tạ nộp kho làm lương thực dự trữ. Bị vơ vét, bóc lột dã man đời sống của
nhân dân và thanh niên Sơn La vô cùng cực khổ, nên rất căm thù và chán ghét bọn
cướp nước. Được chi bộ nhà tuyên truyền giác ngộ nhân dân và thanh niên Sơn La
hiểu rõ, chỉ có đi theo Đảng, gia nhập Việt Minh đánh Pháp, đuổi Nhật giành độc
lập, tự do cho đất nước thì mọi nhà mới được ấm no.
Từ những cơ sở liên lạc của chi
bộ, số thanh niên được giác ngộ ngày một đông. Chi bộ nhà tù thấy đã đến lúc
cần đưa số thanh niên đã được thử thách vào tổ chức cách mạng để từ đó làm nòng
cốt phát triển phong trào đấu tranh cách mạng trong toàn tỉnh.
Mùa xiaan năm 1943, chi bộ nhà
tù Sơn La quyết định thành lập Đoàn thanh niên Cứu quốc vùng thị xã Sơn La và
Mường La, lấy tên là “Mú Nóm chất Mương” (tức là Đoàn thanh niên cứu quốc).
Điều lệ Đoàn thanh niên Cứu quốc dụa trên cơ sở điều lệ Đoàn thanh niên Cứu
quốc Việt Nam do Đảng cộng
sản Việt Nam
tổ chức và lãnh đạo.
Đoàn thanh niên cứu quốc ở Mường
La có các anh: Lò Văn Giá, Cầm Văn Thinh, Lò Xuân, Lù Văn Phui... đi anh Cầm
Văn Thinh làm bí thư. Đoàn thanh niên Cứu quốc ở thị xã Sơn La gồm có: Chu Văn
Thịnh, Tòng Lanh, Nguyễn Phúc và Quàng Đôn do anh Chu Văn Thịnh làm bí thư.
Đoàn thanh niên Cứu quốc có
nhiệm vụ tuyên truyền, vận động xây dựng cơ sở Đoàn, phát triển đoàn viên, phát
triển tổ chức cách mạng ở địa phương và lãnh đạo quần chúng tranh đấu.
Việc đoàn thanh niên Cứu quốc ra
đời ở thị xã Sơn La và Mường La có ý nghĩa to lớn đối với phong trào cách mạng
ở Sơn La. Đây là tổ chức cách mạng đầu tiên của Tỉnh và mở đầu những trang sử
vẻ vang của Đoàn và phong trào thanh niên Sơn La dưới sự lãnh đạo của Đảng.
II- RA SỨC PHÁT TRIỂN TỔ CHỨC,
ĐOÀN THANH NIÊN CỨU QUỐC ĐI ĐẦU LÀM NÒNG CỐT TRONG CÁC CUỘC ĐẤU TRANH ĐÒI GIẢM
THUẾ VÀ BỚT RUỘNG CHỨC DƯỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG
Giữa năm 1943, vừa mới ra đời, Đoàn thanh niên Cứu
quốc đã tổ chức và lãnh đạo cuộc đấu tranh của nông dân đòi giảm thuế và bớt
ruộng chức ở xã Chiềng Xôm (Mường La).
Để
làm nòng cốt cho cuộc đấu tranh các đoàn viên đã lập tổ trung kiên do các anh,
bí thư Cầm Văn Thinh và Lò Xuân trực tiếp chỉ đạo. Tổ trung kiên bao gồm những
nông dân nghèo, bần nông, trung nông lớp dưới, một số chức dịch nhỏ bị thiệt
thòi quyền lợi, có mâu thuẫn với bọn phong kiến phìa, tạo. . . Các đoàn viên đi
sâu, tích cực tuyên truyền, vận động, tổ chức lực lượng, phân tích để quần
chúng hiểu nguồn gốc của sự nghèo khổ, lầm than và hướng dẫn quần chúng đưa đơn
kiện lên chánh sứ Sơn La, tố cáo sự hà lạm ruộng công của phìa, tạo, yêu cầu
chúng phải chia lại ruộng cho dân, giảm bớt thuế khóa và các khoản phụ thu lạm bổ khác . . .
Trước
khí thế đấu trang kiên quyết của quần chúng, bọn phong kiến phìa, tạo hoảng sợ,
tìm mọi cách đối phó, đe dọa và khủng bố. Chúng bắt anh Cầm Văn Thinh, nhưng
vig không có bằng chứng và trước sự phản đối mạnh mẽ của nhân dân, chúng buộc
phải thả anh.
Cuộc
đấu trang đòi giảm thuế, bớt ruộng chức, chia lại ruộng công do Đoàn thanh niên
Cứu quốc lãnh đạo kết thúc, đã khẳng định vai trò của Đoàn và sự phát triển của
phong trào quần chúng dưới sự lãnh đạo của Đảng. Sau cuộc đấu tranh, Đoàn thanh
niên Cứu quốc chuyển hướng hoạt động, nhằm củng cố cơ sở và phát triển tổ chức.
Trong
điều kiên có nhiều khó khăn phức tạp của một tổ chức mới được thành lập, các
đoàn viên thanh niên cứu quốc vẫn luôn tỏ ra là những quần chúng kiên trung,
sẵn sàng đón nhận mọi nhiệm vụ của cách mạng. Bước sang năm 1943, trước yêu cầu
phát triển của phong trào cách mạng trong cả nước, Đảng ta cần rất nhiều cán bộ
có kinh nghiệm, có uy tín để tăng cường cho phong trào và chuẩn bị Tổng khởi
nghĩa. Chi bộ nhà tù chủ trương tổ chức cho một số đồng chí vượt ngục trở về
chỉ đạo phong trào cách mạng. Công việc chuẩn bị được cân nhắc kỹ, tiến hành bí
mật và khẩn trương.
4
đồng chí được chọn vượt ngục là: Nguyễn Lương Bằng, Trần Đăng Ninh, Nguyễn Văn
Trân và Lưu Đức Hiểu. Chi ủy quyết định chọn anh Lò Văn Giá là người Thái, đoàn
viên thanh niên Cứu quốc, sớm giác ngộ cách mạng, được chi bộ nhà tù nhiều lần
thử thách. Anh lại tháo vát, khỏe mạnh và thông thạo đường sá, có thể đảm nhận
nhiệm vụ chi bộ Đảng nhà tù một cách thằng lợi, tránh được sự khủng bố của
địch, bảo toàn lực lượng.
Theo
kế hoạch, tối ngày 5-8-1943, anh Giá cùng 4 đồng chí có mặt tại phố Tạ Chan bên
bờ sông Đà để vượt sông sang Yên Bái, nơi có cơ sở của phong trào Vietj Minh,
nhưng do lũ lớn không thể sang sông được, phải chia làm hai tìm nơi tạm trú.
Sáng hôm sau, nước sông Đà vẫn tiếp tục dâng to, các đồng chí quyết định đi
xuôi theo dọc sông Đà về phía Tạ Hộc để tìm đò vượt sông. Trong đoàn qui định
ngoài anh Lò Văn Giá, không ai được tiếp xúc với dân. Suốt một ngày vượt rừng,
lội suối, áo quần ướt đẫm sương đêm, anh Giá đã đưa được 4 đồng chí vượt ngục
đến Tạ Hộc nhưng vẫn không thể sang sông được. Vì vậy, đoàn vượt ngục phải đổi
kế hoạch, không vượt sông Đà nữa mà đi về hướng đường 41 (tức quốc lộ 6 ngày
nay). Vượt qua Yên Châu, Mộc Châu đến ngày thứ 5 của cuộc hành trình đoàn vượt
ngục đến đèo Pu-Luông, một vị trí tiền tiêu của Sơn La rất hiểm trở. Ngày hôm
đó, lệnh truy nã 4 người tù vượt ngục cũng vừa tới Pu-Luông. Chính quyền Pháp ở
Sơn La trao giải thưởng rất lớn cho những ai bắt được 4 tù nhân cộng sản và
“Nếu ai trái lệnh chứa chấp những kẻ phạm pháp sẽ bị trừng trị theo pháp luật”.
Khi
đoàn vừa đến đỉnh đèo thì gặp tên quản người Mèo canh giữ đèo. Hắn đưa lệnh
truy nã 4 tên tù cộng sản cho anh Giá xem. Anh Giá đã nhanh ý đánh lạc hướng
hắn và nói : “Thưa ông, chúng tôi đây cũng được lệnh truy nã v ề “4 tên tù” đó,
nhưng có lẽ chúng đã nhanh chân chuồn sang Ai Lào rồi, chứ không dám bén mảng
vào con đường cái lớn này đâu!”. Nghe có lý, tên quản Mèo cho phép 5 người
ngược về xuôi.
Trên
đường về suối Rút, đến bản Bông, tên phìa Mộc Hạ đang đi tìm 4 người tù vượt
ngục, chặn đường hỏi, anh Giá bình tĩnh trả lời những câu hỏi của y và xuất
trình thẻ căn cước, y để cho các anh đi.
Sau
8 ngày đêm đầy gian nan, nguy hiểm, nhờ sự thông minh, nhanh trí và dũng cảm
của anh Lò Văn Giá dẫn dường, cuộc vượt ngục của 4 chiến sĩ cộng sản ở nhà tù
Sơn La hoàn toàn thắng lợi. Giờ phút chia tay thật cảm động, anh Lò Văn Giá nói
: “Các anh cứ yên tâm, không phải lo cho tôi, tôi đã có cách xử lý, chỉ mong
sao các anh trót lọt là tôi mừng!”.
Sự
kiện “4 người tù cộng sản” vượt ngục tác động đến giới cầm quyền địa phương rất
lớn. Chúng nghi cuộc vượt ngục này của tù cộng sản có liên quan đến tổ chức bên
ngoài nhà tù và anh Lò Văn Giá là một trong những người bị chúng nghi vấn, tìm
bắt.
Sau
khi chia tay với 4 đồng chí ở suối Rút, về tới Sơn La, anh Giá sa vào tay giặc.
Bị bắt và bị tra tấn dã man, nhưng anh Lò Văn Giá vẫn một mực không nhận có mối
quan hệ với tù chính trị. Anh còn nhắn anh Mai Đắc Bân (là đồng chí trong tù
trực tiếp liên lạc với anh Giá) là “ nhất thiết không khai gì hết”. Sau một
thời gian giam cầm và tra tấn nhục hình, chúng không khai thác được gì ở anh
Giá. Thấy không có bằng chứng gì để kết án, mặc dầu chúng khẳng định anh là
người đưa đường cho tù cộng sản vượt ngục, và rất sợ nhân dân các dân tộc Sơn
La biết sự kiện có thanh niên dân tộc Thái Sơn La tình nguyện đi theo cộng sản
và đã dẫn đường cho cộng sản vượt ngục thắng lợi, chúng đã cùng tuần phủ Cầm
Ngọc Phường âm mưu thủ tiêu anh một cách hèn hạ. Chúng giao cho tên cai dòng
tin cẩn là Lò Văn Bánh bắt anh đi lao động khổ sai ở nghĩa địa Tây (Rua cá) rồi
bắn lén giết hại anh. Sau đó chúng tung tin “Lò Văn Giá chạy trốn nên bị binh
lính bắn chết”. Hành động hèn hạ này đã phơi bày cự bất lực, run sợ của kẻ thù
trước ý chí kiên cường của người thanh niên Thái, tiêu biểu cho tấm lòng của
nhân dân các dân tộc Sơn La đang hướng về cách mạng.
Anh
Lò Văn Giá đã hoàn thành nhiệm vụ lịch sử rất vẻ vang. Năm 1995, đánh giá cao
công lao của anh, Đảng và Nhà nước đã truy tặng danh hiệu anh hùng lực lượng vũ
trang cho người đoàn viên thanh niên Thái cứu quốc – liệt sĩ Lò văn Giá. Nhân
dân các dân tộc Sơn La và tổ chức Đoàn cũng như đoàn viên thanh niên trong Tỉnh
vô cùng tự hào với những chiến công anh hùng của người anh, người con ưu tú của
bản làng.
Cuộc
vượt ngục của 4 đồng chí là cuộc vượt ngục tập thể, có tổ chức lần đầu tiên
thành công của tù chính trị Sơn La, có tác dụng cổ vũ lớn đối với tù chính trị
đang bị địch giam giữ và đặc biệt các đồng chí vượt ngục về là nguồn bổ sung
cán bộ rất quan trọng cho Trung ương và xứ ủy Bắc Kỳ, chuẩn bị cho cuộc Tổng
khởi nghĩa toàn quốc.
Lúc
này địch khủng bố gắt gao. Trước khó khăn của phong trào, chi bộ nhà tù và lãnh
đạo địa phương chủ trương chuyển địa bàn hoạt động về Mường Chanh (châu Mai
Sơn). Đoàn thanh niên Cứu quốc thị xã và Mường La cũng chuyển hướng hoạt động,
đi vào củng cố cơ sở, xây dựng tổ chức, chuẩn bị cho cuộc đấu tranh mới.
Tháng
10-1943, chi bộ nhà tù chỉ thị cho đồng chí Chu Văn Thịnh, là cán bộ cách mạng
thoát ly đầu tiên ở Sơn La- Bí thư Đoàn TNCQ Mường La – vào Mường Chanh cùng
với các đồng chí ở đó tổ chức “Hội người Thái cứu quốc” (Côn tày chất mương):
Sau một thời gian vận động, Hội phát triển được 12 hội viên và nhiều quần chúng
cảm tình, trong đó phần lớn là thanh niên. Hội người Thái cứu quốc là một tổ
chức của mặt trận Việt Minh, hoạt động theo cương lĩnh của mặt trận, có mục
đích đoàn kết, tập hợp đông đảo quần chúng để đánh đế quốc Pháp – Nhật và phong
kiến phìa, tạo phản động.
Tháng
10-1943, Trung ương Đảng cử đồng chí Bình Phương (tức Thọ) lên liên lạc với nhà
tù và nắm tình hình ở Sơn La. Từ đó, chi bộ nhà tù nối được liên lạc với Trung
ương và được sự chỉ đạo của Trung ương. Để đào tạo cán bộ lãnh đạo phong trào
cách mạng cho địa phương, chi bộ nhà tù quyết định để đồng chí Bình Phương đưa
anh Chu Văn Thịnh về cơ quan Trung ương Đảng để bồi dưỡng chính trị và kinh
nghiệm hoạt động cách mạng.
Sau
lớp huấn luyện ngắn ngày, đồng chí Chu Văn Thịnh trở về địa phương hoạt động.
Anh là người trực tiếp nhận các chủ trương của chi bộ nhà tù và lãnh đạo
phong trào cách mạng ở Sơn La. Lúc này, sau một thời gian tạm lắng, các cơ sở
Đoàn thanh niên cứu quốc ở Muờng La, thị xã đã được củng cố, hoạt động rộng
khắp. Nhiều thanh niên học sinh vùng thị xã tình nguyện tham gia hoạt động của
Đoàn thanh niên Cứu quốc. Tổ thanh niên cứu quốc phố Chiềng Lề do Nguyễn Phúc,
Tòng Lanh phụ trách đã tuyên truyền, vận động các đội viên trong các đội bóng
đá, đội văn nghệ nhà trường tích cực tham gia phong trào và đưa họ vào tổ chức
Đoàn TNCQ. Ở Mường La, một nhóm thanh niên gồm : Cầm Dịn, Quang Huyên, Tòng
Lòn, Hoàng Mai, Quàng Văn Đức... đã chích máu ở ngón tay, hoà rượu cùng uống,
tuyên thệ quyết tâm đi theo cách mang. Họ thề rằng : Vào Đoàn thanh niên Cứu
quốc, trung thành tuyệt đối với Việt Minh !
Bằng nhiều
hình thức vận động và giác ngộ quần chúng, Hội người Thái cứu quốc ở Mường
Chanh ngày càng phát huy ảnh hưởng trong nhân dân và thanh niên. Hội phát triển
đến bản Xanh, bản Pài (xã Tranh Đấu) và bản Lằm (Thuận Châu). Hội còn tổ chức
ra đội tự vệ bí mật, đặt nền móng cho hình thức đấu tranh vũ trang. Đội có
nhiệm vụ trừng trị bọn phản dộng, tay sai mật thám và bảo vệ cơ sở cách mạng.
Đoàn TNCQ và
Hội người Thái cứu quốc là những tổ chức cách mạng đầu tiên đã ra đời ở Sơn La
những năm 1943- 1944, dưới sự lãnh đạo của chi bộ nhà tù Sơn La. Lớp người đầu
tiên của Sơn La được Đảng giáo dục, giác
ngộ, đi theo cách mạng, gánh vác trọng trách lịch sử mà quê hương giao phó là
những thanh niên nghèo và học sinh con em các dân tộc. Họ đã đoàn kết, tập hợp
thanh niên và nhân dân các dân tộc Sơn La trong tổ chức cứu quốc của mặt trận
Việt Minh, chuẩn bị những điều kiện cần thiết cho cuộc Tổng khởi nghĩa giành
chính quyền ở địa phương.
III- THANH NIÊN CÁC DÂN TỘC SƠN LA CÙNG
NHÂN DÂN TRONG TỈNH ĐỨNG LÊN KHỞI NGHĨA GIÀNH CHÍNH QUYỀN
Ngày 12- 3-
1945, Ban thường vụ Trung ương Đảng ra chỉ thị - "Nhật - Pháp bắn nhau và
hành động của chúng ta". Bản chỉ thị đã kịp thời đề ra những chủ trương
cách mạng trong thời kỳ mới. Từ cuối tháng 3- 1945 cách mạng Việt Nam chuyển
thành cao trào với những cuộc khởi nghĩa từng phần liên tiếp nổ ra ở nhiều địa
phương trong cả nước, càng thôi thúc công tác chuẩn bị Tổng khởi nghĩa ở Sơn La
thêm khẩn trương.
Ngày 17- 3-
1945, nhà từ Sơn La hoàn toàn giải phóng Gần 200 chiến sĩ cộng sản trở về với
phong trào và lãnh đạo cuộc khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước.
Xứ uỷ Bắc Kỳ
cử đồng chí Lê Trung Toản, sau khi thoát khỏi nhà tù Sơn La trở lại Sơn La cùng
các đồng chí địa phương phát động phong trào chuẩn bị khởi nghĩa giành chính
quyền.
Tình hình Sơn
La lúc này có nhiều thay đổi. Nhiều làng bản bị quân Nhật tàn phá. Nhân dân các
dân tộc điêu đứng và càng khổ cực. Bọn thống trị tay sai vẫn khống chế, đàn áp
nhân dân. Quần chúng rất căm phẫn, sẵn sàng đứng dậy đánh đuổi giặc Nhật, giành
độc lập, tự do. Các cơ sở cách mạng được mở rộng, phát triển.
Đồng chí Lê
Trung Toản cùng các đồng chí địa phương : Chu Văn Thịnh, Cầm Văn Minh đề ra chủ
trương củng cố và phát triển các tố chức cứu quốc, thành lập các đội tư vệ vũ
trang chuẩn bị vũ khí và xây dựng căn cứ địa, đẩy mạnh công tác tuyên truyền,
phát động cao trào chống Nhật, cứu nước, tiến tới khởi nghĩa giành chính quyền
ở Sơn La.
Việc phát
triển hội cứu quốc được tiến hành rất
khẩn trương. Toàn tính Sơn La lúc này có trên 60 cơ sở cách mạng, với trên 200
hội viên cứu quốc và nhiều quần chúng của tỉnh. Ở thị xã và Mường La, tổ chức
Đoàn TNCQ được thống nhất về tổ chức và lãnh đạo, thu hút đông đảo thanh niên
tham gia .Từ 2 tổ thanh niên cứu quốc (1943) đến trước khởi nghĩa, cả hữu ngạn
và tả ngạn sông Đà đã có 8 tổ thanh niên cứu quốc và kết nạp được 50 đoàn viên.
Ở Mường Chanh, phong trào phát triển khá mạnh
mẽ. Ở cả 12 bản đều có cơ sở cách mạng, gồm 64 hội viên. Mường Chanh được chọn
để xây dựng căn cứ địa như hướng của chi bộ nhà tù Sơn La trước đây đã chú
trương.Từ căn cứ địa Mường Chanh mối liên hệ với các cơ sở cách mạng ở Mường La
và thị xã ngày càng củng cố. Trên cơ sở vừa củng cố, vừa phát triển các cơ sở
mới, dần dần tiến đến thống nhất các cơ sở trong toàn tỉnh.
Từ sau Nhật
đảo chính, các tổ chức thanh niên cứu quốc ở Mường La và thị xã đều chuyển
thành tổ chức tự vệ chiến đấu. Đội tự vệ chiến đầu vùng thị xã gồm nhiều thanh
niên bản Cọ, bản Hài, bản Cá (Chiềng An), bản Phiềng Ngùa, Là Mường, (Chiềng
Xôm, Chiềng Ngần, Chiềng Lề... trong đó có cả một số anh em bảo an binh cùng
tham gia. Ở tả ngạn Mựờng La, đồng chí Cầm Dịn cũng tổ chức được một trung đội
tự vệ chiến đấu.
Trên cơ sở các
đơn vị tự vệ chiến đấu, đơn vị vũ trang đầu tiên của toàn tỉnh được thành lập
với 40 Chiến sĩ do đồng chí Cầm Vĩnh Tri phụ trách và dưới sự lãnh đạo trực
tiếp của đồng chí xứ uỷ viên Lê Trung Toàn. Đội được huấn luyện về chính trí và
quân sự.
Việc trang bị
vũ khí cho đơn vị được tiến hành khẩn trương.Ngoài việc sửa chữa và chế tạo vũ
khí, các đội tự vệ đã lợi dụng sự hoảng sợ của binh lính Pháp sau đảo chính của
Nhật để cướp súng tự trang bị. Đội thanh niên chiến đấu của thị xã cướp được 1
tiểu liên, 1 súng trường và 1 súng ngắn. Phong trào tìm kiếm và thu nhặt vũ khí của
lính Pháp vất chạy được phát động rộng rãi, lôi cuốn đông đảo thanh niên và
nhân dân tham gia. Nhân dân các dân tộc đã quyên góp, ủng hộ cách mạng tiền
bạc để mua sắm vũ khí. Hội người Thái cứu quốc ở Mai Sơn Mường La đã lập 2 tổ
sửa chữa sản xuất vũ khí thô sơ : dao găm, dáo, mác.
Các Hội cứu
quốc đã đi sâu vào các làng bản tuyên truyền phát động cao trào chống Nhật sôi
nổi, rộng khắp. Ở vùng thị xã cũng như ỏ các bản xa, các đoàn viên thanh niên
cứu quốc và các hội viên cứu quốc đi sát nhân dân các dân tộc vạch tội ác giặc
Nhật, phát động lòng căm thù phát xít, tăng cường đoàn kết dân tộc, đoàn kết
Kinh - Thái, hăng hái tham gia chống Nhật, cứu nước, tham gia khởi nghĩa giành
chính quyền. Hội người Thái cứu quốc
xuất bản tờ báo "Lắc Mướng" làm cơ quan tuyên truyền của Hội. Báo
viết tay bằng 2 thứ tiếng Việt và Thái, do các đồng chí Lê Trung Toản và Cầm
Văn Minh chỉ đạo kiêm chủ bút. Báo Lắc Mướng kêu gọi đồng báo các dân tộc Tây
Bắc nhận rõ tội ác của giặc Nhật đoàn kết. "trăm người như một" để
đánh thắng phát xít Nhặt, cứu nước.
Đoàn thanh
niên Cứu quốc động viên các đoàn viên, thành niên sáng tác nhiều thơ, ca kêu
gọi đoàn kết chống Nhật và in thành truyền đơn chi tuyên truyền trong nhân dân.
Anh em đoàn viên dùng dân ca Thái để tuyên truyền rộng rãi trong quần chúng
viết các khẩu hiệu trong các hang đá nơi đàn thường vào cất giữ thóc, lúa để tuyên truyền cách mạng và kêu
gọi đồng báo tích cực giúp đỡ và một lòng đi theo Việt Minh, đứng lên tiêu diệt
bọn tay sai phản nước, đánh đuổi giặc Nhật, cứu nước cứu nhà.
Các cơ sở cách
mạng đều có kế hoạch tỉ mỉ điều tra tình hình địch, gài người của ta vào các cơ
quan của chúng để làm nội ứng khi cách mang bùng nổ, cử người theo dõi tỉnh
trưởng Sơn La và nắm chắc các hoạt động của bảo an binh trưởng. Hội người Thái cứu quốc còn ra sức tuyên
truyền, lôi kéo tầng lớp trên có tinh thân dân tộc đi theo cách mạng.
Công việc
chuẩn bị khởi nghĩa diễn ra sôi nổi. Tình thế cách mạng ở Sơn La đã chín muồi
Ở châu Phù Yên, nhờ ảnh hưởng của chiến
khu Vân Hiền Lương, đông đảo thanh niên và nhân dân đã hàng hái tham gia các
hội cứu quốc như thanh niên cứu quốc, phụ nữ cứu quốc, nông dân cứu quốc... Từ
đầu năm 1945 trên 20 thanh niên đã tham gia đội du kích kháng Nhật. Tháng 5-
1945, tổ chức cách mạng đầu tiên của châu Phù Yên mang tên "Mú món chất mương - thanh niên cứu quốc" ra
đời gồm 17 đoàn viên.Chỉ sau một thời gian ngắn đã có thêm 21 thanh niên xin nhập Hội.
Tháng 7- 1945
các tổ chức cứu quốc ở Phù Yên trở thành đội tự vệ có trang bị vũ khí.
Ngày 15-
8–1945, phát xít Nhật đầu hàng Liên Xô và các nước Đồng minh vô điều kiện. Hội
nghị toàn quốc của Đảng họp ở Tân Trào nhận định 2 cơ hội khởi nghĩa giành
chính quyền ở Đông Dương đã chín muồi.
Tiếp đó, Đại Hội quốc dân đã thông qua lệnh Tổng khởi nghĩa. Đồng chí
Chu Văn Thịnh nhận lệnh Tổng khỏi nghĩa của Trung ương và được cử ngay về Sơn
La để lãnh đạo Tổng khởi nghĩa ở địa phương.
Ngày
19-8-1945, cuộc Tổng khởi nghĩa giành chính quyền ở Thủ đô Hà Nội thắng lợi, cổ
vũ mạnh mẽ các địa phương trong cả nước cũng như nhân dân các dân tộc Sơn La
đứng lên giành chính quyền về tay nhân dân
Lúc này phong
trào Sơn La đang rất sôi nổi, gấp rút chuẩn bị cho cuộc Tổng khởi nghĩa.
Đêm 21- 8-
1945, tại thi xã Sơn La đồng chí Chu Văn Thịnh triệu tập cuộc họp bàn kế họach
khởi nghĩa giành chính quyền và cử ban lãnh đạo khởi nghĩa giành chính quyền
gồm 13 người, do đồng chí (Chu Văn Thịnh làm trưởng ban Hội nghị còn cứ một
đoàn đại biểu đi thương thuyết với Nhật.
Mọi công việc
chuẩn bị khởi nghĩa được tiến hành rất khẩn trương. Chỉ trong vòng một đêm,một
ngày các cơ sở đã chuẩn bị xong lực lượng vũ khí, băng cờ, khẩu hiệu...
Đêm 22-8-1945,
theo kế hoạch cuộc khởi nghĩa ở Sơn La bắt đầu
Tại Mường La,
lực lượng vũ trang khởi nghĩa của nhân dân do Nguyễn Tủ Du và Lô Xuân chỉ huy
với trên 50 người có trang bị vũ khi đã bao vây châu lỵ . Trước khí thế của quần chúng, tri
châu Bế văn Điềm đã đầu hàng, trao nộp
ngay ấn, tín hồ sơ, vũ khí, công Sở, kho
tàng cho quân cách mạng.
Cũng trong đêm
22- 8, đội tự vệ vũ trang Chiềng lề do Tòng Lanh, Tòng Phanh chỉ huy đã bao
vây, đột nhập vào tước vũ khí tỉnh trưởng Cầm Ngọc Phương tại nhà riêng.
Cuộc khởi
nghĩa giành chính quyền ở Mường La hoàn toàn thắng lợi.
Tại Thuận
Châu, hơn một tiểu đội lực lượng vũ trang với 20 tay súng từ bản Thé, xã Chiềng
Xôm (Mường La) tiến về bao vậy châu đường vào lúc 2 giờ sáng ngày 23- 8- 1945.
Trên đường đi, hàng trăm thanh niên ở Mường La, Thuận Châu đã vác súng kíp,
gươm, dao, gậy gộc... tham gia đội
quân khởi nghĩa. Tại huyện đường
Thuận Châu do ta có nội ứng và nổ súng thị uy, Bạc Cầm Quý đã hoảng sợ xin hàng
và dâng nộp ấn tín, vũ khí, kho tàng. Chính quyền hoàn toàn về tay nhân dân.
Tại Mai Sơn
sau khi giành chính quyền ở Mường Chanh, quân khởi nghĩa do Cầm Vĩnh Tri lãnh
đạo đã tiến vào châu lỵ Mai Sơn buộc tri châu Căm Văn Chiêu đầu hàng, trao nộp
vũ khí, hồ sợ cho quân khỏi nghĩa. Tiếp đó lực lượng khởi nghĩa tiến xuống Yên
Châu giành chính quyền thắng lợi. Sau đó tiến quân lên tỉnh lỵ phối hợp với các
cánh quân và nhân đàn giành chính quyền.
Ở Mộc Châu
cuộc khởi nghĩa giành chính quyền phức tạp hơn. Ở đây ngoài bọn Nhật còn có bọn
Đại Việt quốc gia liên minh. Chúng giả
mạo giương cao cờ đỏ sao vàng và đem quân đến định chiếm Mộc Châu. Đầu tháng 9, lực lượng vũ trang khởi nghĩa
của Hoà Bình đã tiến lên Mộc Châu kết hợp với lực lượng vũ trang địa phương để
giành chính quyền. Trước sức mạnh của lực lượng vũ trang cách mạng, bọn Đại
Việt quốc gia liên minh phải lui quân. Khoảng đầu tháng 10, UBND lâm thời Mộc
Châu được thành lập, buộc bọn Nhật phải
nộp vũ khí, kho tàng và rút khỏi địa phương.
Sau khi giành
chính quyền ở các châu mường phía Bắc lực lượng vũ trang khởi nghĩa ở tả ngạn
và hữu ngạn sông Đà thống nhất thành tiểu đoàn tự vệ cứu quốc Sơn La gồm trên 500 chiến sĩ, hầu hết là đoàn viên,
thanh niên cứu quốc ở tuổi mười tám đôi mươi.
Nung nấu lòng căm thù phát xít Nhật, Pháp và bọn phong kiến tay sai,
quyết chiến đấu để bảo vệ bản mường, giải phỏng quê hương, quân cách mạng tiến
về thị xã, chiếm lĩnh đồi Khau Cả, bao vây bọn chỉ huy đầu sỏ phát xít Nhật ở
toà sứ Sơn La. Đông đảo nhân đàn và
thanh niên ở thị xã và các bản Tông, Panh, Hum, là Mường, phố Chiềng Lề… cả học sinh trường tiểu học và các công chức
hưởng ứng cuộc khởi nghĩa nhanh chóng cầm vũ khí họp thành đoàn biểu tình của
quần chúng kéo về tỉnh lỵ.
Mặc dầu đã yếu
thế nhưng bọn Nhật vẫn hết sức ngoan cố, không chịu giao nộp vũ khí cho ta.
Cùng với các cuộc thương thuyết lực lượng vũ trang cách mạng đã chiếm trại bảo
an bình. Tối 25- 8- 1945, tiểu đoàn tự vệ Cứu quốc Sơn La cùng lực lượng hùng
hậu của quần chúng nổi dậy áp sát đồi Khau Cả - nơi quân Nhật đang chiếm đóng. Bọn Nhật biết không thể
giữ nổi tỉnh lỵ, chúng phải nộp vũ khí đầu hàng và rút về Hà Nội.
Khởi nghĩa Sơn
La hoàn toàn thắng lợi. Cờ đỏ sao vàng phấp phới tung bay trên đỉnh đồi Khau
Cả. Chính quyền về tay nhân đàn các dân tộc Sơn La
Chiều ngày
26-8-1945, một cuộc mít tinh trọng thể được tổ chức tại sân đồn bảo an bình
trên đồì Khau cả. Đồng chí Chu Văn Thịnh thay mặt UBND cách mạng lâm thời tỉnh
tuyên bố: khởi nghĩa tháng Tám ở Sơn La thắng lợi. Nhân dânn các dân tộc dưới
sự lãnh đạo của Đảng đã giành được chính quyền từ tay phát xít Nhật. Từ nay xóa
bỏ chính quyền quan lại, châu Phìa tay sai, thực hiện
quyền tự do dân chủ nhân
dân. Nhân dân tự bầu lấy người tốt ra
làm việc… Xoá bỏ chế độ "Cuông nhốc", xoá bỏ sự bóc lột... thực hiện
chính sách đoàn kết, bình đẳng,tương trợ giữa các dân tộc anh em trong đại gia
đình Tổ quốc Việt Nam.
Thắng lợi của
cách mạng tháng Tám Sơn La có ý nghĩa
lịch sử to lớn. Từ nay, nhân dân và
thanh niên các dân tộc Sơn La cùng với nhân dân cả nước bước vào kỷ nguyên mới,
kỷ nguyên độc lập, tự do và chủ nghĩa xã hội. Nhân dân và thanh niên Sơn La từ
địa vị nô lệ, "Cuông nhốc".,.. trở thành người chủ bản mường.